|
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Tô Lâm nói chuyện với cán bộ Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Phủ Chủ tịch, ngày 23-5-2024 _Ảnh: TTXVN |
Đây là nền tảng của tư tưởng kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, trở thành một phương châm quan trọng cho công tác đối ngoại và xây dựng đất nước của Đảng và nhân dân ta trong quá trình thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
1- Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định sự gắn kết chặt chẽ, mật thiết giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, giữa cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam với cuộc đấu tranh chung vì hòa bình, độc lập, tự do của nhân dân thế giới, giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản
Chủ tịch Hồ Chí Minh xem cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc như “hai cánh của một con chim”, khẳng định phải kết hợp hai cuộc cách mạng này mới có thể tiêu diệt “con đỉa hai vòi” chủ nghĩa đế quốc; đồng thời, Người chỉ rõ: “Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới”(1), “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(2). Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Người nhận thức sâu sắc việc phát huy sức mạnh toàn dân, đoàn kết toàn dân tộc là một yếu tố quyết định, đồng thời cần tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế. Kháng chiến của ta là kháng chiến trường kỳ và toàn dân toàn diện(3), tự lực cánh sinh(4), đồng thời tranh thủ “sự ủng hộ quốc tế”(5); “dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ tích cực của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và của nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý trên toàn thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ nước Mỹ”(6).
Những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh hàm chứa nhiều luận điểm quan trọng, có giá trị to lớn đối với công cuộc xây dựng, phát triển đất nước hiện nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh định hình rõ nội hàm sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Sức mạnh dân tộc là nguồn nội sinh quý báu, tổng hòa của truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường, khát vọng độc lập, tự do và nguồn lực nơi nhân dân qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó là sức mạnh được hun đúc trong quá trình lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường và những giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”(7).
Sức mạnh thời đại trong thực tiễn hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tổng hòa các xu thế, giá trị tiến bộ chung của nhân loại, phản ánh quy luật vận động và phát triển của lịch sử; thể hiện ở những giá trị tiến bộ của chủ nghĩa cộng sản và cuộc cách mạng vô sản, tư tưởng “độc lập - tự do - hạnh phúc” đúc kết từ những phát triển tiến bộ trong đời sống quốc tế kể từ các cuộc Cách mạng Mỹ (năm 1776), Cách mạng Pháp (năm 1789), Cách mạng Tháng Mười Nga (năm 1917), sự phát triển mạnh mẽ của ba dòng thác cách mạng những năm 50 - 60 của thế kỷ XX(8). Sức mạnh thời đại còn thể hiện ở sự phát triển, tri thức và nguồn lực khoa học - kỹ thuật, giáo dục, các nguồn lực vật chất to lớn của các nước trên thế giới mà Việt Nam cần tranh thủ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm đến những giá trị chung của dân tộc và thế giới để tạo sự chia sẻ, đồng cảm, đoàn kết. Đó là tình hữu nghị, hợp tác giữa các dân tộc, các nước anh em, bầu bạn khắp năm châu, là tinh thần hòa bình, độc lập, giương cao ngọn cờ hòa bình, chính nghĩa của dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định rõ và phát huy các lực lượng quốc tế cần tranh thủ cho cuộc cách mạng khi nhấn mạnh: “Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả”(9), “Mục đích của ta lúc này là tự do, độc lập... bạn của ta trong giai đoạn này là tất cả những nước nào, những dân tộc hay lực lượng nào trên thế giới tán thành mục đích ấy, cùng ta chung một ý chí ấy”(10). Người nhiều lần gửi thư tới Liên hợp quốc và lãnh đạo các nước lớn, bao gồm Mỹ, Anh, Liên Xô, Trung Quốc, để thông báo về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), khẳng định tính hợp pháp của Nhà nước Việt Nam. Người tích cực vận động sự ủng hộ của lực lượng xã hội chủ nghĩa, thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, tranh thủ sự đồng tình của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, khẳng định: “Thắng lợi của cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của các dân tộc gắn liền với sự ủng hộ và giúp đỡ tích cực của phe xã hội chủ nghĩa và của phong trào công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa”(11).
Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức coi trọng kêu gọi, tranh thủ sự ủng hộ, đồng tình của lực lượng hòa bình, dân chủ và nhân dân thế giới đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Theo tư tưởng của Người, cần phân biệt rõ chính phủ thực dân, đế quốc xâm lược với nhân dân tiến bộ các nước, coi nhân dân tiến bộ Pháp, Mỹ là đồng minh của nhân dân Việt Nam(12). Đây là quan điểm hết sức quan trọng giúp cuộc kháng chiến của nhân dân ta giành được sự ủng hộ to lớn từ chính người dân của các nước xâm lược.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra phương cách linh hoạt, sáng tạo, lãnh đạo và trực tiếp triển khai nhiều hoạt động đối ngoại để tranh thủ sức mạnh thời đại. Người rời đất nước đến Pháp trong bốn tháng(13) để trực tiếp đàm phán về vấn đề độc lập của Việt Nam với chính phủ Pháp, đồng thời vận động ngoại giao trên các kênh khác nhau, như chính giới, báo chí(14). Những năm 60 của thế kỷ XX, Người có nhiều cuộc gặp với lãnh đạo, các giới ở các nước xã hội chủ nghĩa, cánh tả nhằm nỗ lực hàn gắn bất đồng trong phe xã hội chủ nghĩa. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Người đã triển khai nhiều biện pháp kêu gọi, vận động các lực lượng tiến bộ trên thế giới, chú trọng “ngoại giao tâm công” để thức tỉnh lương tri, huy động sự ủng hộ của các lực lượng hòa bình, dân chủ quốc tế, của nhân dân thế giới đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta, cô lập kẻ thù(15). Người trực tiếp giáo dục, rèn luyện Đảng ta, rèn luyện cán bộ về nhiều mặt, trong đó có giáo dục, rèn luyện nhận thức, tư tưởng, phương pháp kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nội lực dân tộc có vai trò quyết định, coi đó là cơ sở để vận động, tranh thủ sự giúp đỡ từ bên ngoài(16). Trong cao điểm cuộc đấu tranh ngoại giao thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Người xác định rõ phải “dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ tích cực của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và của nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý trên toàn thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ nước Mỹ”(17).
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh thành công của cách mạng Việt Nam còn đóng góp tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì độc lập dân tộc, hòa bình, tiến bộ và phát triển để cùng thúc đẩy phát triển sức mạnh thời đại. Người viết: “Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em” và “góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”(18). Hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của nhân dân Việt Nam đã truyền cảm hứng cho nhiều phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Đồng thời, nhân dân ta, quân đội ta, cách mạng Việt Nam còn thông qua những hoạt động thiết thực, thực chất đóng góp vào sự phát triển của cách mạng các nước Lào, Cam-pu-chia, phong trào giải phóng dân tộc tại các châu lục.
Những nhận thức, quan điểm sâu sắc và thực tiễn phong phú của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nền tảng vững chắc cho sự kết hợp hài hòa giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại của cách mạng Việt Nam trước đây và ngày nay. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hai yếu tố này đã trở thành một vấn đề có tính quy luật trong lãnh đạo cách mạng của Đảng ta.
2- Những mốc son và thành quả lớn trong tiến trình cách mạng của Đảng và dân tộc Việt Nam luôn gắn liền với sự vận dụng sáng tạo, phát huy sức mạnh nội sinh, nắm bắt và tranh thủ các yếu tố sức mạnh thời đại bên ngoài
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 là sản phẩm của sự kết hợp nhiều yếu tố, nhất là phong trào công nhân, phong trào yêu nước của Việt Nam và giá trị tiến bộ của nhân loại - chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) là thắng lợi của tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí quật cường của các tầng lớp nhân dân Việt Nam, được tiếp sức bởi thời cơ “nghìn năm có một” khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn cuối.
Năm 1950, việc thiết lập quan hệ với Trung Quốc, Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa đã đưa đến sự công nhận quốc tế đầu tiên đối với Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ, giúp Việt Nam phá vỡ thế “chiến đấu trong vòng vây”(19) trong những năm đầu kháng chiến, bước đầu tranh thủ tiếng nói và sự ủng hộ của nhân dân, bạn bè thế giới. Bạn bè quốc tế, nhất là Liên Xô, Trung Quốc, đã dành cho Việt Nam sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn về tinh thần, vật chất, đào tạo cán bộ(20).
Thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược đã minh chứng cho lòng yêu nước, tinh thần bất khuất, đường lối chính trị, quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” năm 1954 và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam là kết quả của lòng yêu nước, tinh thần chiến đấu bất khuất cho độc lập, tự do của quân và dân Việt Nam, đường lối chiến tranh nhân dân toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính và nghệ thuật quân sự sáng tạo, kết hợp với sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và nhân dân tiến bộ trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Cách mạng Việt Nam luôn luôn được sự đồng tình và ủng hộ của giai cấp công nhân và nhân dân cách mạng thế giới, nhất là của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Tình đoàn kết quốc tế vĩ đại ấy là một điều kiện rất quan trọng cho cách mạng Việt Nam thắng lợi”(21). Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả của sức mạnh dân tộc; đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh; lập trường chính nghĩa, thế tất thắng, sự can trường, bất khuất, đỉnh cao của nghệ thuật “đánh - đàm”. Thành quả của hơn 20 năm kháng chiến còn thể hiện sức mạnh thời đại, đó là sự phát triển lớn mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa với những thành tựu phát triển quan trọng trên mọi lĩnh vực kinh tế, quân sự, văn hóa, giáo dục; sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ mạnh mẽ bằng nhiều hình thức của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc; sự ủng hộ lớn lao của nhân dân tiến bộ tại các nước tư bản chủ nghĩa, nhất là nhân dân Mỹ, và mọi lực lượng yêu chuộng hòa bình, công lý trên thế giới, tạo thành mặt trận thống nhất rộng khắp của nhân dân thế giới phản đối chiến tranh, đoàn kết và ủng hộ Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng ta có chính nghĩa, có sức mạnh đoàn kết của toàn dân từ Bắc đến Nam, có truyền thống đấu tranh bất khuất, lại có sự đồng tình ủng hộ rộng lớn của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và nhân dân tiến bộ cả thế giới, chúng ta nhất định thắng!”(22).
3- Năm mươi lăm năm kể từ Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 49 năm kể từ thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thống nhất đất nước, bài học về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, thực hiện mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh” và mục tiêu của cách mạng Việt Nam còn nguyên giá trị to lớn, tiếp tục được Đảng ta kế thừa và phát triển mạnh mẽ
Xuyên suốt gần 40 năm đổi mới đất nước, Đảng ta luôn nhấn mạnh và phát triển quan điểm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, không ngừng đổi mới tư duy, hoạch định chính sách và triển khai các giải pháp nhằm phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, đưa đất nước hội nhập sâu rộng và phát triển bền vững. Đại hội VI (năm 1986) của Đảng nêu rõ, “phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới”. Các kỳ Đại hội VII (năm 1991), Đại hội VIII (năm 1996), Đại hội IX (năm 2001), Đại hội X (năm 2006), Đại hội XI (năm 2011) và Đại hội XII (năm 2016) của Đảng tiếp tục khẳng định kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một trong những bài học chủ yếu của công cuộc đổi mới đất nước.
Đại hội IX của Đảng chỉ rõ các yếu tố sức mạnh thời đại cần được phát huy, đó là cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới đang phát triển như vũ bão, xu thế toàn cầu hóa kinh tế và cuộc đấu tranh sôi nổi của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đại hội X của Đảng xác định hội nhập và hợp tác quốc tế là phương thức huy động sức mạnh thời đại. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) chỉ ra năm bài học kinh nghiệm lớn của cách mạng Việt Nam, trong đó bài học thứ tư nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đại hội XI và Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định lại phương châm và bài học này. Đến Đại hội XIII, Đảng ta xác định ngay trong chủ đề Đại hội là “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại”, thể hiện sự coi trọng của Đảng ta đối với vấn đề này trong tình hình mới.
Thực tiễn kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại qua gần 40 năm đổi mới thể hiện qua ba phương hướng quan trọng.
Một là, Việt Nam không ngừng đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại, trở thành bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; xây dựng quan hệ có trọng tâm, trọng điểm, chú trọng phát huy, đẩy mạnh hợp tác trong các lĩnh vực mà các nước có thế mạnh, đưa quan hệ với các nước đi vào chiều sâu, tạo lập môi trường đối ngoại tổng thể ổn định cho phát triển(23).
Hai là, Việt Nam từng bước tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện, tích cực tham gia các diễn đàn quốc tế, qua đó tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài phục vụ công cuộc đổi mới, phát triển đất nước(24). Từ một nền kinh tế kế hoạch tập trung và khép kín, đến nay, Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế sâu rộng(25). Việt Nam đã trở thành “điểm đến” hấp dẫn của nhà đầu tư nước ngoài, với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng mạnh qua các năm, góp phần thúc đẩy Việt Nam tham gia sâu rộng vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Ba là, Việt Nam ngày càng thể hiện rõ là thành viên tích cực, đối tác tin cậy và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; tích cực góp phần vào công cuộc đấu tranh toàn cầu chống bất công, áp bức, thúc đẩy hợp tác và phát triển bền vững giữa các quốc gia(26). Trong nhiều vấn đề quốc tế quan trọng, tiếng nói, sáng kiến và cách thức giải quyết có lý, có tình trên tinh thần bình đẳng, hòa hiếu và nhân văn của ta nhận được sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Việt Nam cũng nỗ lực thúc đẩy các xu hướng hợp tác quốc tế tích cực, đề cao tôn trọng luật pháp quốc tế, thúc đẩy chủ nghĩa đa phương, chống sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; tích cực đóng góp vào duy trì hòa bình, an ninh quốc tế, khu vực, thúc đẩy các xu hướng liên kết kinh tế quốc tế, hợp tác kinh tế quốc tế, giải quyết các vấn đề toàn cầu(27).
4- Yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đòi hỏi nhận thức ngày càng đầy đủ, vận dụng một cách toàn diện, sâu sắc, sáng tạo phương châm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Thứ nhất, quán triệt đầy đủ tầm quan trọng của việc phát huy kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong bối cảnh mới.Sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam hiện nay là tổng hòa nhiều yếu tố. Đó là sức mạnh văn hóa, con người Việt Nam, được biểu hiện qua truyền thống văn hóa, lịch sử, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tinh thần yêu nước, hòa hiếu, ý chí tự lực, tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc cùng với vị trí địa - chiến lược quan trọng. Sức mạnh đó còn là đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, những thành quả to lớn, quan trọng trong bảo đảm quốc phòng - an ninh, ổn định chính trị - xã hội và phát triển kinh tế qua gần 40 năm đổi mới, cũng như kinh nghiệm, bài học mà Việt Nam đã tích lũy được qua các giai đoạn cách mạng; sự đồng tình, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân thế giới. Thế, lực và uy tín đất nước trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định.
Sức mạnh thời đại ngày nay đến từ những xu thế chủ đạo của thế giới, đã được Đại hội XIII (năm 2021) của Đảng, Nghị quyết số 34-NQ/TW, ngày 9-1-2023, của Bộ Chính trị, “Về một số định hướng, chủ trương lớn triển khai đường lối đối ngoại Đại hội XIII” chỉ rõ. Đó là xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển; cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những bước nhảy vọt trong khoa học - công nghệ(28). Đó là quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục diễn ra mạnh mẽ, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày càng sâu sắc, là nhận thức và nhu cầu của các quốc gia về hợp tác giải quyết các vấn đề toàn cầu(29). Châu Á - Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, trong đó có Đông Nam Á, giữ vị trí chiến lược ngày càng quan trọng, là một động lực tăng trưởng kinh tế thế giới; vai trò của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) tiếp tục được các nước coi trọng. Cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội tiếp tục phát triển dưới nhiều hình thức mới; các giá trị phổ quát về quyền con người, công bằng xã hội và phát triển bền vững ngày càng được coi trọng trong quan hệ quốc tế.
Thứ hai, nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, xác định nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng, đồng thời kiên định về mục tiêu, nguyên tắc, linh hoạt về sách lược;hết sức tranh thủ, phát huy cao nhất thế và lực mới của đất nước, sự coi trọng của các nước đối với vị trí địa chiến lược và tiềm lực, vị thế quốc tế của Việt Nam. Đại hội XIII của Đảng đã đề ra các mục tiêu phát triển của đất nước(30), đồng thời xác định ba đột phá chiến lược nhằm thực hiện thành công mục tiêu đó(31). Việc thực hiện thành công các đột phá chiến lược đòi hỏi không chỉ nâng cao nội lực, mà còn tranh thủ nguồn lực quốc tế, nhất là trong lĩnh vực khoa học - công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Qua đó, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc và hợp tác quốc tế, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển bền vững, toàn diện của đất nước trong giai đoạn mới.
Thứ ba, đưa quan hệ của nước ta với các đối tác, nhất là các nước láng giềng, các đối tác quan trọng ngày càng đi vào chiều sâu, tạo thêm sự gắn kết, đan xen lợi ích chiến lược. Coi trọng quan hệ truyền thống hữu nghị, hợp tác gần gũi, tình nghĩa, thủy chung với các nước bạn bè truyền thống nhằm củng cố tin cậy, làm sâu sắc quan hệ trên mọi mặt. Tích cực tham gia các cơ chế đa phương, chủ trì hoặc đề xuất sáng kiến mới, góp phần tạo cơ hội tăng cường hợp tác song phương với các nước, mở rộng hợp tác song phương trên những vấn đề đa phương.
Thứ tư, phát huy tổng thể các kênh đối ngoại để kịp thời nắm bắt, tận dụng các xu hướng phát triển tích cực của thế giới cho bảo đảm an ninh, thúc đẩy phát triển và nâng cao vị thế của đất nước.Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân tộc trong công tác đối ngoại, tranh thủ sáng kiến, hỗ trợ của các nước, các xu hướng liên kết, hợp tác kinh tế quốc tế mới nhằm bảo đảm cục diện đối ngoại chiến lược ổn định, phát triển kinh tế. Triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động đối ngoại trên cả ba trụ cột đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân; phát huy vai trò, thế mạnh đặc thù của từng trụ cột, chủ thể và lực lượng tham gia công tác đối ngoại trên tất cả lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội, khoa học - công nghệ..., giúp Việt Nam tiếp cận, tận dụng hiệu quả thành tựu tiên tiến của thời đại.
Thứ năm, đẩy mạnh hơn nữa việc tham gia các nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế nhằm xử lý những vấn đề khu vực, quốc tế,nhất là: 1- Tăng cường đóng góp cụ thể cùng cộng đồng quốc tế xử lý các vấn đề an ninh, xung đột, điểm nóng trong khu vực và trên thế giới; 2- Chủ động đề xuất sáng kiến đa phương mới, đồng thời đóng góp vào các chương trình nghị sự quốc tế quan trọng nhằm góp phần thúc đẩy xu hướng hợp tác quốc tế tích cực; 3- Thể hiện trách nhiệm ngày càng cao trong các vấn đề toàn cầu với các loại hình, mức độ, nội hàm tham gia mới, tương xứng với vị thế, uy tín, vai trò quốc tế của đất nước.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một văn kiện lịch sử có giá trị to lớn, tổng kết những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam và đóng góp vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Trong bối cảnh mới, việc vận dụng sáng tạo, hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và quan điểm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới nói riêng sẽ giúp Việt Nam nắm bắt và tranh thủ tối đa cơ hội từ những xu thế lớn của thế giới, ứng phó hiệu quả với các thách thức phức tạp, đa chiều, mang tính toàn cầu, tạo dựng, củng cố sức mạnh tổng hợp to lớn phục vụ sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
Lê Hoài Trung
Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương
---------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 2, tr. 329
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 30
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 12
(4), (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 27, 678
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 396
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 38
(8) Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa; phong trào giải phóng dân tộc; phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 329
(10) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 8, tr. 437
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 392
(12) Tháng 8-1963 và tháng 4-1964, trả lời phỏng vấn của nhà báo Ô-xtrây-li-a W. Bớc-sét, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trước đây, chúng tôi đã chú ý phân biệt thực dân Pháp với nhân dân Pháp yêu chuộng hòa bình, thì ngày nay chúng tôi cũng chú ý phân biệt nhân dân Mỹ vĩ đại có truyền thống tự do, với bọn can thiệp Mỹ và bọn quân phiệt ở Hoa Thịnh Đốn”, “chúng tôi phân biệt nhân dân Mỹ với đế quốc Mỹ. Chúng tôi muốn có những quan hệ hữu nghị và anh em với nhân dân Mỹ mà chúng tôi rất kính trọng”. Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 148, 304
(13) Từ tháng 6 đến tháng 10-1946
(14) Người trực tiếp gặp gỡ, vận động các nhân vật chính trị quan trọng của Pháp (Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Pháp quốc hải ngoại, Chủ tịch Quốc hội), trả lời phỏng vấn báo chí (Nhật báo L’Humanité, nhật báo Le Monde) trình bày quan điểm của Việt Nam về vấn đề độc lập...
(15) Năm 1966, Người có thư gửi nhân dân Mỹ kêu gọi chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam; thư gửi mục sư Mác-tin Lu-thơ Kinh (Martin Luther King) năm 1967 ủng hộ cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc và phản đối chiến tranh Việt Nam; thư gửi nhân dân Mỹ nhân dịp năm mới năm 1968 khẳng định tinh thần hòa bình của nhân dân Việt Nam, phác họa tội ác mà quân lính Mỹ xâm lược đã gây ra trên đất nước Việt Nam, sự phá hoại của cuộc chiến tranh đối với cuộc sống của nhân dân lao động Mỹ; các thư gửi nhà báo và trí thức phương Tây giải thích lập trường của Việt Nam; Lời kêu gọi hòa bình năm 1969 kêu gọi chấm dứt chiến tranh và khôi phục hòa bình tại Việt Nam được đăng tải trên nhiều tờ báo quốc tế, trong đó có cả báo chí của các nước tư bản...
(16) Người nhấn mạnh“phải tự lực cánh sinh”. Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 445; “muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 320; “Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập. Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 445
(17), (18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 396, 613 - 614
(19) Xem: Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Chiến đấu trong vòng vây, Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004
(20) Sự phát triển công nghiệp và quân sự của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa đã trở thành nền tảng vững chắc để các nước viện trợ cho Việt Nam 21.517 tấn vũ khí, quân trang, quân dụng, lương thực, y tế trong 4 năm (1951 - 1954). Khoảng 500 sinh viên Việt Nam được gửi đi đào tạo tại các nước xã hội chủ nghĩa đã góp phần nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật cho đất nước. Xem: Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp - Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996
(21) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 467
(22) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 132
(23) Từ chỗ chỉ có quan hệ với các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, bị bao vây, cấm vận vào những năm 80 và đầu những năm 90 của thế kỷ XX, đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 191 trong tổng số 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc; trong đó, có 30 đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, bao gồm tất cả 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, 7 nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (G-7) và 17 nước trong Nhóm G-20... Đảng Cộng sản Việt Nam đã có quan hệ với 253 chính đảng ở 115 quốc gia, trong đó có khoảng 90 đảng cộng sản và công nhân quốc tế; quan hệ với đảng cầm quyền và tham chính có vai trò quan trọng ngày càng được mở rộng, củng cố. Quốc hội Việt Nam có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 quốc gia và tham gia tích cực tại nhiều diễn đàn nghị viện quốc tế quan trọng. Hoạt động đối ngoại của Chính phủ trên các lĩnh vực chính trị, quốc phòng##- an ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội được đẩy mạnh, góp phần tăng cường sự tin cậy chính trị và đan xen lợi ích với các đối tác. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức hữu nghị của nhân dân cũng đã triển khai nhiều hoạt động đối ngoại thiết thực, góp phần củng cố quan hệ hữu nghị với nhân dân các nước, quảng bá sâu rộng công cuộc đổi mới, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ra thế giới
(24) Từ chủ trương của Đại hội VI (năm 1986) là chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đến Đại hội VIII (năm 1996), Đảng ta đã xác định chủ trương tiếp tục xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, thay thế nhập khẩu bằng sản phẩm sản xuất trong nước hiệu quả. Bước phát triển, đột phá lớn về tư duy hội nhập quốc tế được xác định tại Đại hội IX (năm 2001) với chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” và dần được bổ sung với phương châm “tích cực” và mở rộng trên các lĩnh vực khác (Đại hội X, năm 2006); triển khai đồng bộ, toàn diện hoạt động đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế (Đại hội XI, năm 2011) với các mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và định hướng triển khai (Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10-4-2013, của Bộ Chính trị, “Về hội nhập quốc tế”) tiến đến “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng” (Đại hội XIII, năm 2021). Bên cạnh Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10-4-2013, của Bộ Chính trị, “Về hội nhập quốc tế”, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị quan trọng định hướng cho tiến trình hội nhập quốc tế, như Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 5-11-2016, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, “Về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”; Nghị quyết số 50-NQ/TW, ngày 20-8-2019, của Bộ Chính trị, “Về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030”; Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27-9-2019, của Bộ Chính trị, “Về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”. Các nghị quyết, chỉ thị đã đề ra quan điểm, phương châm lớn, tạo cơ sở vững chắc để tranh thủ, tận dụng sức mạnh thời đại cho quá trình phát triển đất nước
(25) Việt Nam đã có quan hệ kinh tế - thương mại với 230 nước và vùng lãnh thổ; ký kết 17 FTA, trong đó có 3 FTA thế hệ mới với tiêu chuẩn cao (Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương - CPTPP, FTA Liên minh châu Âu - Việt Nam - EVFTA, Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực - RCEP) và mạng lưới liên kết kinh tế sâu rộng với hầu hết nền kinh tế quan trọng trên thế giới... Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu đến nay đạt khoảng 600 tỷ USD, gấp khoảng 120 lần so với những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Việt Nam đã thu hút được hơn 400 tỷ USD vốn FDI, trong đó đã giải ngân được khoảng 250 tỷ USD... Trong thời kỳ đại dịch COVID-19, công tác ngoại giao y tế, ngoại giao vắc-xin được triển khai kịp thời, hiệu quả. Công tác người Việt Nam ở nước ngoài giúp huy động được nguồn lực to lớn của đồng bào ta ở nước ngoài để góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
(26) Việt Nam đã cử hàng trăm lượt cán bộ, chiến sĩ tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc (tại Nam Xu-đăng, Cộng hòa Trung Phi và Abyei), thể hiện cam kết đối với hòa bình và an ninh quốc tế. Trong khuôn khổ ASEAN, Việt Nam đã đóng góp tích cực vào việc xây dựng Cộng đồng ASEAN, thúc đẩy đoàn kết khu vực. Đối với các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, Việt Nam cam kết mạnh mẽ trong việc giảm phát thải khí nhà kính và chuyển đổi năng lượng sạch. Trong bối cảnh đại dịch COVID-19, Việt Nam thể hiện tinh thần đoàn kết quốc tế qua việc hỗ trợ vật tư y tế và tài chính cho hơn 50 quốc gia, tổ chức quốc tế. Bên cạnh đó, Việt Nam tích cực thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững của Liên hợp quốc, đặc biệt là trong lĩnh vực xóa đói, giảm nghèo, được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Các đóng góp này minh chứng cho vai trò tích cực của Việt Nam trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, góp phần vào sự phát triển chung của nhân loại
(27) Việt Nam đã đề xuất nhiều sáng kiến, như sáng lập Nhóm bạn bè về Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982; thúc đẩy các Nghị quyết và Tuyên bố Chủ tịch của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc về bảo vệ kết cấu hạ tầng thiết yếu...
(28) Trí tuệ nhân tạo (AI), internet vạn vật (IoT), công nghệ số...
(29) Biến đổi khí hậu, an ninh phi truyền thống và phát triển bền vững...
(30) Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam): Trở thành nước phát triển, thu nhập cao
(31) Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trọng tâm là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, ưu tiên nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội.
Theo Tạp chí Cộng sản