|
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và đại biểu dự Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII _ Ảnh: TTXVN |
Bản lĩnh chính trị và việc rèn luyện bản lĩnh chính trị của Đảng
Bản lĩnh chính trị của một cá nhân, tập thể là khả năng vượt qua những áp lực, khó khăn, thách thức; là lòng tin, sự kiên định, quyết tâm lớn lao và năng lực ứng biến với những thay đổi của thực tiễn, sự đoàn kết đồng lòng để tìm ra cách thức đúng đắn, nhằm thực hiện thành công mục tiêu chính trị của mình. Bản lĩnh chính trị dựa trên sự nắm vững tri thức khoa học và khả năng đúc rút tri thức mới từ thực tiễn hoạt động chính trị của chủ thể.
Bản lĩnh chính trị của một cá nhân, một chính đảng không tự nhiên mà có. Khả năng tự chủ, đứng vững trước áp lực, sáng suốt tìm ra con đường đúng đắn… của chủ thể chính trị chỉ có thể có được qua quá trình khổ công rèn luyện lâu dài. Rèn luyện bản lĩnh chính trị là hoạt động có mục đích, nhằm từng bước xây dựng, củng cố thái độ, quyết tâm và khả năng giữ vững, bảo vệ và phát triển quyết định của cá nhân, tập thể trong hoạt động chính trị, bất chấp những áp lực từ nhiều phía. Tuy nhiên, hoạt động chính trị của con người thường xuyên, liên tục chịu tác động bởi nhiều yếu tố bất định, khó lường; vì thế, việc tự giác rèn luyện là điều kiện cần, để tạo nên nền tảng cơ bản cho bản lĩnh chính trị của chủ thể; nhưng khả năng vượt qua áp lực, thử thách mới chính là sự khẳng định và làm dạn dày thêm bản lĩnh chính trị của chủ thể. Chỉ khi vượt qua được những thử thách, áp lực không định trước được, bản lĩnh chính trị mới trở nên ổn định, vững chắc, trở thành bản chất cố hữu của chủ thể chính trị.
Việc rèn luyện bản lĩnh chính trị của chủ thể chính trị diễn ra trong thực tiễn chính trị, được tiến hành thông qua các hoạt động có tính mục đích chính trị rõ ràng, được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và sự tham gia tích cực của quần chúng nhân dân.
Rèn luyện bản lĩnh chính trị bắt đầu với việc truyền bá, học tập, quán triệt và nắm vững, hiểu biết ngày càng sâu sắc về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng... Đây là kim chỉ nam soi sáng cho nhận thức và hành động của mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng, nhất là khi gặp phải những tình thế khó khăn, trở ngại, là cơ sở nền tảng để các chủ thể chính trị phân tích, đánh giá đúng tình hình, tìm ra bản chất, quy luật, tính quy luật của sự vật, hiện tượng chính trị, từ đó đưa ra được những giải pháp phù hợp, tập hợp được sức mạnh cần thiết để vượt qua khó khăn, thách thức, hoàn thành tốt nhiệm vụ, đạt được mục tiêu chính trị đề ra.
Rèn luyện bản lĩnh chính trị thông qua việc củng cố niềm tin chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Những trải nghiệm chính trị, những bài học kinh nghiệm “xương máu” được đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân rút ra từ thực tiễn và những thành tựu cách mạng dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng làm cho nhận thức chính trị của họ càng thêm sâu sắc, từ đó tình cảm, niềm tin chính trị vào Đảng càng thêm sâu nặng. Lúc này, tình cảm, niềm tin chính trị đã trở thành bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân. Điều này được V.I. Lê-nin chỉ rõ, qua thực tiễn cách mạng vô sản Nga: “… khi đụng đến một phong trào bao gồm hàng triệu quần chúng nhân dân, thì chỉ những lời nói thôi không đủ; quần chúng nhân dân phải có kinh nghiệm của bản thân họ để họ tự kiểm nghiệm những chỉ thị và tin vào kinh nghiệm của bản thân”(1).
Rèn luyện bản lĩnh chính trị thông qua việc tổ chức thành công các phong trào hành động chính trị, nhằm đạt các mục tiêu mà Đảng đề ra. Bản lĩnh chính trị không chỉ biểu hiện thông qua cuộc đấu tranh trên mặt trận lý luận chính trị, mà còn thông qua các phong trào hành động cách mạng trong thực tiễn, nhằm cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng. Kết quả thực tế của các phong trào hành động cách mạng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân là minh chứng thuyết phục nhất cho bản lĩnh chính trị của Đảng.
Những biểu hiện cụ thể, đặc điểm bản lĩnh chính trị của Đảng trong những thời điểm mang tính bước ngoặt
Một là, những biểu hiện cụ thể bản lĩnh chính trị của Đảng trong những thời điểm mang tính bước ngoặt.
Kiên định mục tiêu, giữ vững nguyên tắc, nhưng mềm dẻo về phương pháp, sách lược, nhất là ở các thời điểm khó khăn khi đưa ra các quyết định lựa chọn. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta nhiều lần thể hiện việc kiên định mục tiêu chiến lược, nhưng thực hiện mục tiêu đó bằng phương pháp, sách lược mềm dẻo, để vừa khẳng định và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa giành được những thành quả trên thực tế; đồng thời, thu hút được ngày càng nhiều quần chúng yêu nước tham gia vào phong trào cách mạng.
Một trong những điển hình cho việc Đảng kiên định mục tiêu chiến lược, nhưng thực hiện bằng phương pháp, sách lược mềm dẻo chính là thực tiễn cách mạng những năm 1936 - 1939, khi Đảng lãnh đạo thực hiện những mục tiêu cải thiện về dân chủ và nhân quyền, từ ảnh hưởng của việc Chính phủ Pháp do những đảng cánh tả nắm quyền năm 1936. Kết quả là, tập hợp được đông đảo quần chúng xung quanh Đảng thông qua các tổ chức chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng; đời sống chính trị - xã hội có những cải thiện nhất định đã ảnh hưởng tốt tới thiện cảm của quần chúng nhân dân với Đảng; qua phong trào, đội ngũ đảng viên được rèn luyện bởi thực tiễn cách mạng, được trang bị thêm kiến thức hoạt động nghị trường, vì thế, cũng có sự trưởng thành nhất định. Chính trong giai đoạn này, nhiều nhà cách mạng tiền bối của Đảng, như Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp… đã trực tiếp tham gia viết báo, tổ chức tờ báo..., vì thế đã được rèn giũa những kỹ năng nhất định, rất cần thiết cho hoạt động cách mạng sau này.
Quyết đoán quyết định ở thời điểm vô cùng khó khăn. Một điển hình của việc dũng cảm đưa ra quyết định vào thời điểm khó khăn được thể hiện trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Khi đó, thực tế chiến trường đã có những thay đổi lớn so với khi chuẩn bị phương án ban đầu là đánh nhanh, thắng nhanh; nếu cứ tiếp tục thực hiện theo phương án đã đề ra, thì chúng ta sẽ phải chịu những tổn thất to lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng tới lực lượng cách mạng. Tuy nhiên, từ những thông tin phản biện, cùng với sự cân nhắc kỹ lưỡng về tương quan giữa quân ta và quân đội Pháp ở Điện Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đưa ra quyết định mà theo ông là khó khăn nhất trong cuộc đời làm tướng của mình, đó là chuyển phương châm từ đánh nhanh, thắng nhanh, sang đánh chậm, tiến chắc. Như vậy, người đưa ra quyết định mang tính lịch sử đó phải có bản lĩnh lớn, xuất phát từ tài thao lược kiệt xuất, phương pháp làm việc khoa học, căn cứ vào thực tế chiến trường, khắc ghi những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đánh khi chắc thắng, không chắc thắng không đánh.
Dám đương đầu với thách thức, quyết tâm tận dụng cơ hội, không bỏ lỡ thời cơ, biến thách thức thành cơ hội, nhất là vào các thời điểm bước ngoặt của cách mạng. Điển hình của trường hợp này chính là cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của dân tộc ta. Đảng ta đã huy động sức mạnh toàn dân tộc, quyết tâm vượt qua khó khăn, tận dụng thời cơ cách mạng để phát động Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 và đi đến thành công. Khi đó, phát xít Nhật đã đầu hàng Đồng minh, còn lực lượng Pháp chưa kịp trở lại Đông Dương; lực lượng phản cách mạng ở trong thế yếu, còn phong trào cách mạng đang lên cao chưa từng thấy. Trong tình thế đó, nếu Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên khắp cả nước và ở các thành phố lớn không diễn ra kịp thời, thì kết quả của cuộc Tổng khởi nghĩa sẽ khó đạt mục tiêu đề ra, thành quả của cách mạng sẽ không triệt để.
Dũng cảm đối mặt với sai lầm, khuyết điểm và kiên quyết sửa chữa khuyết điểm, tự chỉnh đốn Đảng để hoàn thiện. Một trong những điển hình của việc Đảng thể hiện bản lĩnh chính trị, dũng cảm đối mặt với sai lầm, khuyết điểm và kiên quyết sửa chữa khuyết điểm là việc sửa chữa những sai lầm trong cải cách ruộng đất những năm 1953 - 1955. Đảng đã thẳng thắn thừa nhận “có phạm sai lầm nghiêm trọng”(2), từ đó, nghiêm túc đề ra biện pháp để sửa chữa những lỗi lầm nói trên. Chủ tịch Hồ Chí Minh có “Thư gửi đồng bào nông thôn và cán bộ nhân dịp cải cách ruộng đất ở miền Bắc căn bản hoàn thành”, đăng Báo Nhân dân, ngày 18-8-1956; qua đó, khẳng định sự thành công và ý nghĩa to lớn của cải cách ruộng đất với cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, Người cũng chỉ rõ những sai lầm đã mắc phải trong khi thực hiện và nghiêm túc chỉ ra: “Trung ương Đảng và Chính phủ đã nghiêm khắc kiểm điểm những sai lầm, khuyết điểm ấy, và đã có kế hoạch kiên quyết sửa chữa, nhằm đoàn kết cán bộ, đoàn kết nhân dân, ổn định nông thôn, đẩy mạnh sản xuất”(3).
Thái độ công khai, thẳng thắn trong đánh giá, nhìn nhận vấn đề một cách khách quan, trong thực hiện nhiệm vụ chung của sự nghiệp cách mạng, cách bày tỏ chân tình, thấu đáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước quần chúng nhân dân đã khiến cho những khúc mắc được giải tỏa, lòng tin của nhân dân với sự lãnh đạo của Đảng càng được củng cố, tạo thành sức mạnh mới cho phong trào. Cách ứng xử của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trước những sai lầm xảy ra trong khi thực hiện cải cách ruộng đất chính là sự thể hiện rất rõ bản lĩnh chính trị của Đảng.
Dám đổi mới và sẵn sàng chịu trách nhiệm trước dân tộc, trước nhân dân, trước lịch sử về quyết định của mình. Với việc tiến hành đổi mới toàn diện tại Đại hội VI của Đảng (năm 1986), Đảng ta đã thể hiện rõ trách nhiệm trước dân tộc, khẳng định bản lĩnh chính trị của mình trong sự nghiệp cách mạng. Khi đó, tư duy đổi mới phải đối diện với những áp lực không hề nhỏ từ nhiều phía, trong đó có áp lực từ lối tư duy sáo mòn, kinh viện, duy ý chí gắn với cơ chế kế hoạch hóa tập trung vốn đã ăn sâu trong suy nghĩ và hành động của số đông.
Sự thống nhất giữa "ý Đảng và lòng dân" đã đưa đến thành công của Đại hội VI của Đảng - Đại hội đổi mới. Toàn bộ đánh giá, nhận định trong Văn kiện Đại hội VI toát lên tinh thần nghiêm túc nhìn nhận vấn đề, thể hiện thái độ dũng cảm trong đánh giá thực tế, phê bình và tự phê bình những sai lầm mà Đảng đã phạm phải trong quá trình lãnh đạo cách mạng từ sau năm 1975. “Những sai lầm và khuyết điểm trong công tác lãnh đạo của đảng trước hết thuộc về trách nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Hội đồng Bộ trưởng… làm cho sự lãnh đạo của Đảng trong những năm gần đây không đáp ứng những đòi hỏi của tình hình mới. Ban Chấp hành Trung ương xin tự phê bình nghiêm túc về những khuyết điểm của mình trước Đại hội”(4). Đó chính là bản lĩnh chính trị của một đảng cách mạng chân chính theo tư tưởng Hồ Chí Minh, khi không che dấu khuyết điểm, thành khẩn tự phê bình và chỉ ra phương hướng khắc phục khuyết điểm, đồng thời quyết tâm khắc phục.
Hai là, đặc điểm bản lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bản lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện bản lĩnh chính trị của đảng vô sản theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, được Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và dìu dắt, chịu sự ảnh hưởng của truyền thống chính trị dân tộc qua nhiều thời kỳ, có dấu ấn tác động của vị trí địa - chính trị của đất nước Việt Nam.
Bản lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện ở việc kiên cường vượt qua những khó khăn, thử thách của phong trào cách mạng, được trui rèn để ngày càng trưởng thành, là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất về ý chí và hành động; đoàn kết, hy sinh không sờn lòng; kiên định vượt qua những trở ngại to lớn; dũng cảm tự phê bình để ngày càng trưởng thành; giữ vững bản chất của một đảng vì nước, vì dân; tiếp tục vững vàng lãnh đạo dân tộc vượt qua những thách thức trong giai đoạn cách mạng mới.
Rèn luyện bản lĩnh chính trị có quan hệ chặt chẽ với nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng. Đó chính là quan hệ gắn bó giữa việc thường xuyên giáo dục, rèn luyện, tu dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên, với việc chuẩn bị khả năng thích ứng cao với mọi hoàn cảnh khó khăn, đột xuất, đòi hỏi phải đưa ra được những quyết định kịp thời, chuẩn xác.
Rèn luyện bản lĩnh chính trị có quan hệ chặt chẽ, qua lại với rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cầm quyền của Đảng và đều yêu cầu người đảng viên cần phải phấn đấu cao nhất vì lý tưởng cách mạng, vì thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự phấn đấu đó là thường xuyên, liên tục, không có điểm dừng, bởi cuộc cách mạng nhằm đem lại hạnh phúc cho toàn thể dân tộc phải vượt qua những thử thách không thể đoán định được, đòi hỏi phải có nỗ lực cao nhất.
Rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng
Làm tốt công tác giáo dục, bồi dưỡng, thử thách, tạo môi trường rèn luyện cho đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược.
Cần thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược, để họ thấm nhuần sâu sắc hệ tư tưởng của Đảng và phương pháp làm việc khoa học, từ đó có sự sáng suốt, vững vàng trước những thử thách để có thể lựa chọn và đưa ra những quyết định đúng đắn, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn cách mạng. Muốn vậy, cần “Đổi mới căn bản nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục lý luận chính trị theo hướng khoa học, sáng tạo, hiện đại và gắn lý luận với thực tiễn; đưa việc bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp đi vào nền nếp, nâng cao chất lượng, hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng”(5).
Thời gian tới, để làm tốt công tác giáo dục, bồi dưỡng, thử thách đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược, góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị của Đảng, cần thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp mà Đại hội XIII của Đảng đã chỉ ra. Đó là: “Đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng nâng cao năng lực dự báo, tầm nhìn chiến lược trong hoạch định đường lối, chủ trương”(6); “Nâng tầm tư duy lý luận của Đảng, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp kịp thời cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tổng kết thực tiễn 40 năm đổi mới để bổ sung, phát triển lý luận của Đảng. Tiếp tục bổ sung, phát triển hệ thống các quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”(7).
Để rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, cần tạo môi trường rèn luyệntừchính thực tiễn công tác phong phú, đa dạng hằng ngày. Chính trong môi trường đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải đối mặt với những nhiệm vụ thường xuyên, trong đó có cả những nhiệm vụ mới, khó; nếu tổ chức đảng biết cách bố trí, sắp xếp hợp lý, động viên, giúp đỡ thì khó khăn, thử thách đó lại chính là cơ hội rèn luyện bản lĩnh, giúp cán bộ có điều kiện phát huy hết năng lực.
Hiện nay, nhiều đảng bộ thực hiện việc giao nhiệm vụ mới, khó gắn với sản phẩm, kết quả cụ thể để rèn luyện, thử thách đối với đội ngũ cán bộ được đưa vào diện quy hoạch. Nhiệm vụ đó có thể là những công việc còn tồn đọng qua nhiều nhiệm kỳ, chưa giải quyết triệt để do vướng mắc về cơ chế… Đó có thể là nhiệm vụ mà nếu giải quyết được sẽ tạo ra bước tiến mạnh mẽ trong phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Thông qua kết quả thực hiện nhiệm vụ đó, tổ chức đảng sẽ đánh giá cán bộ một cách toàn diện, cả về năng lực, trình độ, khả năng tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Cách làm trên của một số địa phương, cơ quan, đơn vị thời gian qua là một biện pháp tốt để rèn luyện bản lĩnh chính trị, chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, rất cần được đánh giá, tổng kết để rút ra bài học kinh nghiệm.
Thực hiện công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, góp phần rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ các cấp.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ một cách thường xuyên, liên tục chính là công việc quan trọng đểrèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng. Muốn vậy, cần phải thường xuyên “… xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín”(8); “tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, bồi dưỡng lý tưởng, nhân sinh quan cách mạng”(9). Bên cạnh đó, cần “tiếp tục tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm và quyết tâm chính trị của toàn Đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng… phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn khuyết điểm, vi phạm từ xa, từ sớm”(10). Kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng là biện pháp cơ bản, quan trọng để xây dựng và chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, cũng là biện pháp hữu hiệu để rèn luyện và nâng cao bản lĩnh chính trị của Đảng. Bởi, kỷ luật là sức mạnh giúp tập thể đồng lòng vượt qua những khó khăn, thử thách. Đồng thời, để rèn luyện bản lĩnh chính trị, đội ngũ cán bộ, đảng viên cần tu dưỡng, thực hành thường xuyên, nghiêm túc đạo đức cách mạng. “Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, luôn vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức… Kết hợp giữa giữ vững kỷ luật, kỷ cương của Đảng, đề cao pháp luật của Nhà nước với giáo dục, bồi dưỡng nhân cách, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên”(11).
Phát động các phong trào hành động cách mạng rộng lớn hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Các phong trào hành động cách mạng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc, chính là cơ sở thực tiễn, môi trường cho việc rèn luyện bản lĩnh chính trị củađội ngũ cán bộ, đảng viên. Để đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, chúng ta còn rất nhiều việc phải làm, đặc biệt là khắc phục những điểm nghẽn, thực hiện thành công 3 đột phá chiến lược, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh,... Muốn vậy, Đảng phải có đủ năng lực, bản lĩnh, uy tín, trí tuệ và đạo đức tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; có sự đồng thuận, ủng hộ của đông đảo quần chúng nhân dân, thông qua các phong trào hành động cách mạng rộng khắp trên mọi lĩnh vực, mọi miền đất nước, góp sức cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều biến động phức tạp, khó lường.
Từ thực tiễn các phong trào hành động cách mạng, các nhân tố mới xuất hiện, đem lại hiệu quả trên nhiều mặt; đồng thời, những vấn đề khó khăn nảy sinh trong quá trình thực hiện sẽ là “đề bài” đòi hỏi tổ chức đảng và đảng viên có trách nhiệm phải tìm ra lời giải. Tất cả những điều đó đều góp phần quan trọng rèn luyện và nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, như chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh rằng, gắn bó mật thiết với nhân dân chính là cội nguồn sức mạnh của Đảng ta. Thời gian qua, do “… chưa tạo được nhiều cơ chế, chính sách, giải pháp có tính đột phá, đồng bộ để tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp, huy động mọi nguồn lực cho phát triển”(12), “các nguồn lực, tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc chưa được phát huy tốt”(13)…, nên đã làm ảnh hưởng nhất định đến việc phát huy sức mạnh to lớn của các phong trào hành động cách mạng rộng khắp của các tầng lớp nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Để khắc phục những hạn chế nói trên, thời gian tới, cần “… tuyên truyền sâu rộng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước gắn với đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, hành động trong Đảng và nhân dân”(14); qua đó, “khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”(15). Đồng thời, cần “chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tốt đẹp của người Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”(16)..../.
-------------------
(1) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 39, tr. 41
(2) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 18, tr. 7
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 10, tr. 412
(4) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 27
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 235 - 236
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 253
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 234 - 235
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 242
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 241
(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 245 - 247
(11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 237 - 238
(12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 94
(13) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 88
(14) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 233
(15) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 110
(16) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 136 - 137
Theo Tạp chí Cộng sản