Tin mới

Nhận diện các xu hướng và giải quyết thấu đáo các vấn đề đặt ra trong phát triển văn hóa

(Mặt trận) - Sau 35 năm đổi mới đất nước, văn hóa đã khẳng định vai trò to lớn và đứng trước những yêu cầu mới, đoàn kết, thống nhất ý chí, hành động; khơi dậy khát vọng vươn lên và ý chí quyết tâm phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Quán triệt sâu sắc và triển khai các quan điểm, chủ trương về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, cần có sự nhận diện thấu đáo các xu hướng phát triển và giải quyết thích đáng những vấn đề đặt ra. PGS. TS. Nguyễn Thế Kỷ, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng Lý luận phê bình văn học nghệ thuật Trung ương đã trả lời phỏng vấn của báo chí xoay quanh nội dung này.

Chỉ thị của Ban Bí thư về việc tổ chức Tết Ất Tỵ năm 2025

Trưởng Ban Tổ chức Trung ương: Tinh gọn là phải rất gọn, chức năng và nhiệm vụ phải rõ ràng

Dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng theo tinh thần Đại hội XIII - Những vấn đề lý luận và thực tiễn

 

NGUỒN LỰC NỘI SINH TO LỚN

PV: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ,  tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đồng chí có thể chia sẻ rõ hơn về vai trò và những đóng góp của văn hóa vào sự phát triển của đất nước, đặc biệt trong 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới?

PGS. TS. Nguyễn Thế Kỷ: Trước hết, cần khẳng định rằng, hàng nghìn năm lịch sử của dân tộc ta đã vun đắp nền văn hóa Việt Nam trở thành điểm tựa tinh thần vững chắc, là nguồn lực nội sinh to lớn tạo nên những thắng lợi vĩ đại trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu chỉ rõ: “Phải đem văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ” hay “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Theo tư tưởng của Người, văn hóa nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị. Thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc  không chỉ là thắng lợi của đường lối chính trị, quân sự đúng đắn mà còn là thắng lợi của chủ nghĩa yêu nước và những giá trị tinh thần cao đẹp của con người Việt Nam, văn hóa Việt Nam. 

Trong chặng đường phát triển của đất nước, đặc biệt là hơn 35 năm tiến hành đổi mới đất nước, chính văn hóa và các giá trị văn hóa đã góp phần nuôi dưỡng tình yêu quê hương, đất nước, nhân lên sức mạnh của lòng yêu nước, ý chí tự lực tự cường và khát vọng cống hiến của mỗi người dân ra sức thi đua lao động, học tập, nghiên cứu, rèn luyện vì sự phát triển bền vững của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân, vì sự trường tồn của dân tộc.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Nhận thức về văn hóa, xã hội, con người ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn. Các lĩnh vực, loại hình, sản phẩm văn hóa phát triển ngày càng đa dạng, đáp ứng nhu cầu mới, nhiều mặt của đời sống xã hội. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa được kế thừa, bảo tồn và phát huy. Văn hóa trong chính trị và trong kinh tế bước đầu được coi trọng và phát huy hiệu quả tích cực. Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế về văn hóa khởi sắc”.

Đồng chí Nguyễn Thế Kỷ, Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng Lý luận phê bình văn học nghệ thuật Trung ương.

NHỮNG ĐIỂM NGHẼN 

- Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, thành tựu to lớn, quan trọng đã đạt được, công tác lãnh đạo, quản lý và phát triển văn hóa, xây dựng con người của ta cũng bộc lộ những hạn chế, yếu kém, thưa đồng chí?

- Thực tiễn những năm qua cho thấy, lĩnh vực văn hóa nhìn chung chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị, chưa thật sự trở thành mục tiêu, thành động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước. Tư duy lãnh đạo và quản lý văn hóa chưa theo kịp sự phát triển của xã hội và của chính văn hóa. Thể chế văn hóa chưa theo kịp và đáp ứng với yêu cầu phát triển, chậm đổi mới, không đồng bộ, có mặt còn lạc hậu. Việc thực thi nhiều quy định của pháp luật liên quan đến văn hóa còn lúng túng, bất cập. Đầu tư cho văn hóa từ Trung ương đến địa phương chưa tương xứng với với vị trí, vai trò, tác dụng của văn hóa trong phát triển. 

Vai trò của văn hóa trong xây dựng con người chưa được xác định đúng tầm, chưa tập trung bồi dưỡng, hun đúc trí tuệ, tâm hồn, cốt cách con người Việt Nam thời kỳ mới. Thiếu những tác phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật lớn phản ánh sinh động, xứng đáng tầm vóc công cuộc đổi mới, con người Việt Nam mới. Môi trường văn hóa tiếp tục bị ô nhiễm bởi các hành vi, sản phẩm văn hóa thiếu lành mạnh, thậm chí dung tục, lệch lạc, tiêu cực; còn nổi rõ tình trạng tiếp thu, dung nạp xô bồ một số sản phẩm và khuynh hướng văn hóa lai căng, cực đoan, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc ta. Chưa có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn, đẩy lùi một số hành vi tiêu cực, sản phẩm văn hóa xuống cấp, đạo đức, lối sống bị tha hóa, gây bức xúc xã hội. Chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền, giai tầng còn lớn. Đời sống văn hóa ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa còn nghèo nàn, nhiều khó khăn. 

Bản sắc văn hóa dân tộc có nguy cơ bị phai nhạt, bị pha tạp, thậm chí bị “xâm lăng”. Nhiều loại hình di sản văn hóa phi vật thể của đồng bào dân tộc thiểu số như tiếng nói, chữ viết, tri thức dân gian, phong tục, tín ngưỡng dân gian, tập quán xã hội… chưa được chú trọng kiểm kê, phân loại và lập hồ sơ bảo vệ. Việc giới thiệu, quảng bá văn hóa Việt Nam ra nước ngoài còn khá yếu ớt, thiếu hệ thống, thiếu tính liên tục; việc đánh giá, tiếp nhận tinh hoa văn hóa nhân loại có nhiều mặt còn hạn chế.

Nguồn nhân lực cho sự phát triển văn hóa còn tương đối yếu, thiếu các kỹ năng và kiến thức chuyên môn, nhất là công tác lãnh đạo, quản lý văn hóa trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, kinh tế tri thức, xã hội số, văn hóa số. Năng lực đổi mới sáng tạo trong văn hóa, văn nghệ còn nhiều hạn chế, bất cập. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa, văn học, nghệ thuật chưa theo kịp với yêu cầu của đời sống văn hóa, văn nghệ ngày càng mới mẻ, phức tạp. Cán bộ làm công tác văn hóa ở các cấp còn tình trạng chắp vá, trình độ chuyên môn còn hạn chế; còn thiếu hụt cán bộ có năng lực, uy tín, bản lĩnh ở tầm chiến lược, cả cơ quan của Đảng và các cơ quan Nhà nước. 

Công nghiệp văn hóa ở nước ta đang từng bước được xây dựng nhưng còn gặp nhiều lúng túng, bất cập, yếu kém. Hoạt động lý luận văn hóa; lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhiều vấn đề mới, cấp thiết, có phần phong phú và phức tạp của đời sống xã hội, còn xa rời thực tiễn sáng tác, sáng tạo văn hóa, văn nghệ.

XỬ LÝ CÁC MỐI QUAN HỆ ĐẶT RA TRONG XÂY DỰNG VĂN HÓA

- Theo đồng chí, những vấn đề đặt ra trong phát triển văn hóa, văn nghệ nước ta hiện nay chúng ta cần nhận diện và giải quyết là gì?

- Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, đường lối, quan điểm và tư duy lý luận của Đảng về phát triển văn hóa, con người ngày càng sâu sắc, có hệ thống, đặt văn hóa trong tầm nhìn rộng lớn, thuộc đời sống tinh thần, quan hệ mật thiết với sự phát triển con người, cao hơn là phát triển toàn diện đất nước. Tuy nhiên, vẫn còn khoảng cách không nhỏ giữa lý luận và thực tiễn, nhất là việc xác định hướng đi, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển văn hóa phù hợp với bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư; tác động của internet, đặc biệt là mạng xã hội; sự tác động từ mặt trái, tiêu cực của kinh tế thị trường, của toàn cầu hóa mức cao hơn đến sự phát triển văn hóa. 

Hiện nay, đang hiện diện hai thực tế trái ngược nhau: một mặt, lý luận văn hóa chưa cập nhật, đi sau cuộc sống, hàng loạt câu hỏi cơ bản và cấp bách do thực tiễn đặt ra nhưng công tác lý luận chưa trả lời được, hoặc trả lời chưa thuyết phục. Mặt khác, nhiều hiện tượng văn hóa, sản phẩm văn hóa vẫn diễn ra một cách tự phát, thiếu kiểm soát, thiếu điều chỉnh kịp thời khiến cho việc chỉ đạo, quản lý trong thực tiễn lúng túng, thụ động. 

Trên phương diện thực tiễn, chúng ta cần xử lý mối quan hệ giữa xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với sự phát triển mạnh mẽ, đồng bộ của nền kinh tế thị trường. Giải quyết hài hòa mối tương quan giữa mục tiêu nhân văn của văn hóa với những quy luật khắc nghiệt của kinh tế thị trường. Văn hóa là lĩnh vực đặc biệt, nhạy cảm, gắn với phúc lợi xã hội, quyền tiếp cận, hưởng thụ của người dân nên luôn cần có sự điều tiết từ phía Nhà nước để tránh tác động tiêu cực từ mặt trái của kinh tế thị trường. Sản phẩm văn hóa, nghệ thuật có những thuộc tính của hàng hóa, nhưng luôn có tính đặc biệt vì nó liên quan đến đạo đức, thẩm mỹ, lối sống, tình cảm, tinh thần của con người. Nhiều sản phẩm văn hóa mang tính công ích, chưa hẳn phù hợp với thị trường cạnh tranh khắc nghiệt nhưng cần phải bảo vệ vì là hồn cốt dân tộc, giúp định hướng phát triển nhân cách con người, gìn giữ đạo đức cho xã hội. Trước tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường, một số hoạt động văn hóa, nghệ thuật bị “thương mại hóa”, tầm thường hóa, ảnh hưởng tiêu cực đến công cuộc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và chọn lọc, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới. Việc giải quyết đúng đắn, hài hòa mối quan hệ này sẽ giúp xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển toàn diện con người - mục đích cuối cùng của sự phát triển kinh tế - xã hội.

Xử lý mâu thuẫn giữa nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao, đa dạng của nhân dân và khả năng đáp ứng còn hạn chế của đội ngũ sáng tác, biểu diễn và quản lý văn hóa. Từ đó, giảm thiểu các xu hướng hời hợt, kém chất lượng, làm phai nhạt phong tục, tập quán, lối sống của dân tộc, ảnh hưởng xấu đến nhận thức, thị hiếu, lối sống của người dân, đặc biệt là giới trẻ. 

Xử lý tốt mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy, giữ gìn và phát triển, truyền thống và hiện đại. Đây là những mối quan hệ rất phức tạp, đòi hỏi cần có những quan điểm, cách làm vừa mang tính nguyên tắc, toàn diện, xuyên suốt vừa linh hoạt theo loại từng hình, đối tượng, hoàn cảnh cụ thể. Hài hòa lợi ích các bên liên quan, kiên định mục tiêu bảo vệ các giá trị văn hóa cơ bản, tránh sa vào các mục tiêu ngắn hạn, thực dụng; biết gìn giữ, phát huy, tiếp thu có chọn lọc... là những vấn đề đang đặt ra trong phát triển văn hóa giai đoạn hiện nay.

Phát triển hài hòa, đúng mức giữa văn hóa tinh hoa và văn hóa đại chúng. Văn hóa đại chúng phù hợp với nhiều người, với thị trường nhưng văn hóa tinh hoa giúp nâng cao và định hướng cho sự phát triển văn hóa đất nước. Văn hóa tinh hoa chính là những đỉnh cao sáng tạo nhưng có thể kén chọn khán giả, ít ưu thế thị trường, cần sự định hướng và hỗ trợ của Nhà nước, trong khi đó, văn hóa đại chúng là bộ mặt đương đại của văn hóa, gần gũi, dễ ảnh hưởng đến đông đảo quần chúng nhân dân. Vì vậy, chính sách phát triển văn hóa tinh hoa và văn hóa đại chúng cần có sự phân biệt đúng mức, phù hợp với hai loại hình, vừa tạo điều kiện sáng tạo văn hóa, định hướng thẩm mỹ, vừa thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ văn hóa của người dân.

Xử lý mối quan hệ giữa bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và mở cửa, hội nhập về văn hóa với thế giới. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc giữ gìn văn hóa dân tộc cũng là một hình thức bảo vệ chủ quyền quốc gia, đồng thời, tạo ra lợi thế cho đất nước trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Những ví dụ gần đây cho thấy, các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật càng có nhiều dấu ấn bản sắc văn hóa dân tộc càng tạo được lợi thế trong quá trình chinh phục thị trường quốc tế. Chính sự khác biệt được tạo ra bởi văn hóa đã tạo nên tính hấp dẫn cho không chỉ sản phẩm văn hóa, nghệ thuật mà còn cả các sản phẩm hàng hóa nói chung. Khi mở cửa, hội nhập quốc tế, chúng ta cần giữ vững bản lĩnh về văn hóa, bản sắc dân tộc để giao lưu, hội nhập mà không bị đồng hóa, không bị hòa tan.

DỰ BÁO CÁC XU HƯỚNG

- Theo đồng chí, dự báo các xu hướng phát triển văn hóa và cũng sẽ là những gợi ý trong phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn tới sẽ là gì?

- Hiện nay, xu hướng coi trọng văn hóa và gắn văn hóa với phát triển con người, coi văn hóa là nhân tố đảm bảo cho sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững ngày càng được các quốc gia quan tâm. Quá trình toàn cầu hóa về kinh tế có nguy cơ dẫn đến xung đột với việc bảo tồn bản sắc và đa dạng văn hóa trên phạm vi toàn thế giới, đồng thời cũng xuất hiện khả năng gắn chặt quá trình phát triển kinh tế với quá trình phát triển văn hóa. Kinh tế không thể phát triển bền vững nếu không đặt rõ vấn đề văn hóa trong mỗi hoạt động kinh tế. Và với Việt Nam, văn hóa là nguồn sức mạnh nội sinh to lớn, nền tảng tinh thần vững chắc, là tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, mạnh mẽ.

Các quốc gia ngày càng phát triển càng đề cao bản sắc văn hóa dân tộc, coi trọng việc giữ gìn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc, đấu tranh chống khuynh hướng “xâm lăng”, đồng hóa về văn hóa; gắn kết vấn đề giữ vững bản sắc văn hóa quốc gia, dân tộc với quá trình chọn lọc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Toàn cầu hóa về văn hóa là một xu thế khách quan cần chính sách phát triển phù hợp.

Quá trình dân chủ hóa văn hóa đã và đang là một xu hướng phát triển mạnh mẽ, trong đó chính sách đa dạng văn hóa là một trong những mục tiêu mà mỗi quốc gia đều hướng tới, bảo đảm cho các nhóm xã hội, các cá nhân được thể hiện quyền văn hóa của mình, được biểu đạt văn hóa của mình trong một bối cảnh xã hội tôn trọng các sáng kiến, các sáng tạo và biểu đạt văn hóa. Phát triển các văn hóa nhóm và văn hóa cá nhân là những xu thế sẽ tăng mạnh trong thời gian tới. Sự đa dạng của thị hiếu và cách tiếp cận ngày càng đa dạng lên. Tăng cường khả năng tiếp cận của người dân thông qua các chính sách đầu tư vào cơ sở hạ tầng cho văn hóa, tăng cơ hội học tập nâng cao tri thức cũng là một xu hướng được các quốc gia chú trọng.

Xu hướng phát triển văn hóa trong mối quan hệ với xây dựng con người cũng đang ngày càng phổ biến. Tri thức văn hóa trở thành một phần của vốn xã hội. Vốn văn hóa và vốn xã hội là hai nguồn lực quan trọng trong xã hội hiện đại để xây dựng con người. Nguồn lực trung tâm để phát triển văn hóa là con người, do đó, lấy phát triển nguồn lực con người làm mục tiêu trung tâm. Phát triển văn hóa luôn phải gắn kết chặt chẽ với việc xây dựng con người đang là xu thế của thời đại. 

Truyền thông số là phương tiện biểu đạt văn hóa mới trong một kỷ nguyên số, xã hội số, nền kinh tế số và công dân số. Các hình thức của sản phẩm văn hóa trong kỷ nguyên số sẽ vô cùng đa dạng, rất khó quản lý theo phương thức truyền thống. Trong bối cảnh đó, bên cạnh các hàng rào kỹ thuật, việc nâng cao nhận thức và kỹ năng quản lý quá trình tiếp nhận văn hóa, trình độ thẩm mỹ của mỗi cá nhân là vô cùng quan trọng nhằm nâng cao sức “đề kháng” và năng lực tự lựa chọn của mỗi cá nhân.

Phát triển văn hóa cá nhân và văn hóa nhóm sẽ là trọng tâm của quá trình phát triển văn hóa đô thị, trong khi đó, văn hóa cộng đồng ở khu vực nông thôn sẽ phải biến đổi và thích ứng theo hướng bảo tồn những giá trị cốt lõi, tiếp thu và tích hợp những yếu tố mới. 

Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội XIII đều xác định một trong 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 là: Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. 

Tôi lưu ý thêm là, trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục khẳng định, chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cũng chỉ rõ, cần tập trung nghiên cứu và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực của con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới. Quan tâm chăm lo công tác giáo dục, bồi dưỡng và bảo vệ trẻ em, thiếu niên, nhi đồng. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớn nhân dân, nhất là thanh niên.

ĐỂ VĂN HÓA THẤM SÂU VÀO ĐỜI SỐNG

- Để những quan điểm, mục tiêu, giải pháp về phát triển văn hóa, con người Việt Nam mà Đại hội XIII đã đề ra trở thành hiện thực sinh động trong đời sống, theo đồng chí, cần tập trung vào những vấn đề gì?

- Theo tôi, cần tập trung vào 8 nhóm giải pháp trọng tâm như sau:

Thứ nhất, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là tập trung nghiên cứu và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực của con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới. Quan tâm chăm lo công tác giáo dục, bồi dưỡng và bảo vệ trẻ em, thiếu niên, nhi đồng. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớn nhân dân, nhất là thanh niên. 

Thứ hai, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của phát triển văn hóa, xây dựng con người trong đổi mới và phát triển bền vững. 

Thứ ba, hoàn thiện thể chế, đổi mới tư duy quản lý văn hóa, cải cách bộ máy quản lý nhà nước về văn hóa theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, đảm bảo vai trò kiến tạo phát triển văn hóa, xây dựng con người, tăng cường hiệu quả của các hệ thống thiết chế văn hóa. 

Thứ tư, phát triển nguồn nhân lực ngành văn hóa, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt.
Thứ năm, xây dựng văn hóa trong chính trị, trong kinh tế, đặc biệt là văn hóa trong Đảng trở thành tấm gương đạo đức cho xã hội, văn hóa doanh nghiệp trở thành hệ điều tiết cho sự phát triển kinh tế - xã hội. 

Xu hướng phát triển văn hóa trong mối quan hệ với xây dựng con người cũng đang ngày càng phổ biến. Tri thức văn hóa trở thành một phần của vốn xã hội. Vốn văn hóa và vốn xã hội là hai nguồn lực quan trọng trong xã hội hiện đại để xây dựng con người. Nguồn lực trung tâm để phát triển văn hóa là con người, do đó, lấy phát triển nguồn lực con người làm mục tiêu trung tâm. Phát triển văn hóa luôn phải gắn kết chặt chẽ với việc xây dựng con người đang là xu thế của thời đại.

Thứ sáu, phát triển thị trường văn hóa, các ngành công nghiệp văn hóa để đáp ứng nhu cầu tiếp nhận, hưởng thụ của người tiêu dùng và thị trường ngoài nước. 

Thứ bảy, phát triển văn học, nghệ thuật đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế, xây dựng con người Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”.

Thứ tám, tập trung nguồn lực từ Nhà nước và các thành phần kinh tế khác đầu tư cho phát triển văn hóa, xây dựng con người, ưu tiên nguồn lực cho vùng miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đối tượng hưởng chính sách xã hội, đối tượng chịu thiệt thòi, cho một số loại hình nghệ thuật truyền thống và hiện đại cần bảo tồn, phát triển. 

Tôi tin rằng, khi chúng ta thấu triệt phương châm đã được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh“Phải phát triển văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc” với một sự quyết tâm cao, nỗ lực lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, chắc chắn, sẽ góp phần đưa đường lối về văn hóa của Đảng thấm sâu vào thực tiễn cuộc sống, lan tỏa rộng khắp những giá trị văn hóa trường tồn, tạo thành sức mạnh làm cho cơ đồ của đất nước Việt Nam ngày thêm rạng rỡ, hùng cường như Bác Hồ hằng mong muốn.

- Xin trân trọng cảm ơn đồng chí!

Đồng chí Đỗ Văn Chiến Ủy viên Bộ Chính trị,
Bí thư Trung ương Đảng,
Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam
Xem thêm
Gửi ban biên tập
Tìm kiếm văn bản