Tin mới

Thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam - Sự sáng tạo mang tính chiến lược của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

(Mặt trận) - Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra đời (năm 1969), là một sự kiện trọng đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân Việt Nam, là bước phát triển tất yếu của quá trình hoàn chỉnh hệ thống chính quyền cách mạng miền Nam, đáp ứng yêu cầu cấp bách của cuộc chiến tranh giải phóng. Kế tục và phát triển sự nghiệp vinh quang của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân tộc, ra sức chỉ đạo, điều hành phong trào cách mạng miền Nam, đẩy mạnh thế tiến công toàn diện trên mọi lĩnh vực để đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước tiến lên giành thắng lợi, hoàn thành công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng - Nhân tố quyết định Đại thắng mùa xuân năm 1975

Hiệp định Geneva 1954: Một mốc son lịch sử của nền ngoại giao Việt Nam

Chiến thắng Điện Biên Phủ - Một biểu tượng chói lọi của văn hóa Việt Nam

Phó Chủ tịch Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam Nguyễn Hữu Dũng tại Hội thảo khoa học “Bằng chứng lịch sử và vai trò của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”, tháng 6/2023 

Sau năm 1954, với âm mưu biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, căn cứ quân sự ở Đông Nam Á, đế quốc Mỹ cùng chính quyền Sài Gòn từ chối thực hiện Hiệp định Giơnevơ, lập nên ở miền Nam chính thể Việt Nam Cộng hòa, chia cắt lâu dài Việt Nam.

Trước tình hình đó, Trung ương Đảng xác định cách mạng Việt Nam phải thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Để đoàn kết, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân miền Nam tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, năm 1960, Đảng quyết định thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Từ khi thành lập, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam vừa là ngọn cờ tập hợp, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân miền Nam đứng lên chống Mỹ và chế độ Sài Gòn, vừa là người đại diện cho Nhân dân miền Nam trong đối nội và đối ngoại.

Đến năm 1967, trên cơ sở những thắng lợi của quân và dân hai miền Nam - Bắc trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc và chống chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ ở miền Nam, với mục đích đẩy mạnh hơn nữa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, từ ngày 23 đến ngày 26/1/1967, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 13, bàn việc “Đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến công địch, phục vụ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước”.

Nghị quyết Hội nghị nhấn mạnh: “Đi đôi đấu tranh quân sự và chính trị ở miền Nam, ta cần tiến công địch về mặt ngoại giao, phối hợp với hai mặt đấu tranh đó để giành thắng lợi to lớn hơn nữa”1. Mục đích của cuộc tấn công ngoại giao của Việt Nam lúc này là nhằm tố cáo tội ác dã man của bọn xâm lược Mỹ, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và sự giúp đỡ mạnh mẽ của nhân dân các nước trên thế giới, lập một mặt trận thống nhất của nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược.

Với Nghị quyết được thông qua tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13, ngoại giao chính thức được coi là một mặt trận trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đây là sự kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong công cuộc xây dựng, bảo vệ miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân Việt Nam.

Tại miền Nam, nhằm mở rộng hơn nữa khối đại đoàn kết dân tộc, động viên và cổ vũ toàn dân quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược và xây dựng miền Nam độc lập, dân chủ, trung lập và phồn vinh, ngày 15/8/1967, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam họp Đại hội bất thường thông qua Cương lĩnh chính trị.

Về nhiệm vụ đối ngoại, Cương lĩnh nêu rõ: “Đặt quan hệ ngoại giao với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội, theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, cùng chung sống hòa bình”.

Nhiệm vụ đối ngoại của Mặt trận được xác định là: “Tăng cường quan hệ hữu nghị với tất cả các nước đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam…, tích cực ủng hộ phong trào độc lập dân tộc của nhân dân châu Á, châu Phi và châu Mỹ - Latinh chống chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân cũ và mới”2.

Đấu tranh ngoại giao đã thực sự là một mặt trận quan trọng trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, song Đảng và Chính phủ Việt Nam cho rằng trong việc phối hợp giữa ba mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao thì đấu tranh quân sự là nhân tố, là điều kiện tiên quyết, quyết định đến thắng lợi trên mặt trận ngoại giao.

Việt Nam chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị những cái mà chúng ta giành được trên chiến trường. Chính vì vậy, đêm 30 rạng ngày 31/1/1968 (tức đêm giao thừa Tết Mậu Thân), quân và dân miền Nam đã tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên khắp miền Nam. Trong gần hai tháng Tổng tiến công và nổi dậy, quân và dân miền Nam đã đánh vào 4 trong số 6 thành phố lớn, 37 trong số 40 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ, trong đó có Sài Gòn, Huế…, bao gồm các cơ quan đầu não của địch như Tòa đại sứ Mỹ, Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn, Đài phát thanh, Bộ Tư lệnh biệt khu Thủ đô, Bộ Tư lệnh Hải quân, Sân bay Tân Sơn Nhất, Tổng nha cảnh sát, khu kho Nhà Bè…

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 của quân và dân miền Nam đã làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ. Ngày 31/3/1968, Tổng thống Mỹ Johnson tuyên bố đơn phương xuống thang chiến tranh, ngừng ném bom miền Bắc, Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra, sẵn sàng cử đại diện đàm phán với phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Văn phòng Chính phủ phối hợp với Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Trị tổ chức Hội thảo khoa học “Bằng chứng lịch sử và vai trò của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”, tháng 6/2023. 

Ngày 20/1/1969, Nixon lên làm Tổng thống Mỹ thay Johnson và bắt đầu thực hiện một chiến lược toàn cầu mới mang tên “Học thuyết Nixon”. Ở Việt Nam, Nixon triển khai chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Đây là một chiến lược hoàn chỉnh về quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao nhằm giảm bớt sự dính líu của quân đội Mỹ trên bộ, nhưng phải giành thế mạnh trên chiến trường để kết thúc chiến tranh bằng thương lượng theo điều kiện của Mỹ. Thực chất đây là chủ trương dùng người Việt Nam đánh người Việt Nam, dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương với tiền bạc, vũ khí, trang bị của Mỹ và do Mỹ chỉ huy.

Để chống lại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, đưa sự nghiệp kháng chiến đến thắng lợi, nhiệm vụ của quân và dân Việt Nam được xác định là: “Tiếp tục phát triển chiến lược tấn công một cách toàn diện, liên tục và mạnh mẽ, đẩy mạnh tiến công quân sự và tiến công chính trị, kết hợp với tiến công ngoại giao, vừa tiến công địch vừa ra sức xây dựng lực lượng quân sự và chính trị của ta ngày càng lớn mạnh; đánh bại âm mưu “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ”3.

Trên mặt trận ngoại giao, sau khi Hoa Kỳ tuyên bố chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đều ra tuyên bố cùng Mỹ và chính quyền Sài Gòn họp hội nghị bốn bên về chiến tranh Việt Nam tại Paris. Ngày 13/5/1968, phiên họp đầu tiên giữa hai bên, phía Việt Nam do Bộ trưởng Xuân Thủy làm Trưởng đoàn và phía Mỹ do Đại sứ Harriman làm Trưởng đoàn được tiến hành tại Trung tâm Hội nghị quốc tế Thủ đô Paris của nước Pháp.

Sau hơn 5 tháng (từ ngày 13/5 đến cuối tháng 10/1968) với 28 phiên họp công khai, 12 lần gặp bí mật cấp cao và nhiều cuộc tiếp xúc, gặp gỡ riêng ở các cấp khác, đến ngày 27/10, hai bên đã thỏa thuận được những vấn đề cơ bản như Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam, đại diện của Chính quyền Việt Nam Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam cùng tham gia đàm phán.

Ngày 31/10/1968, Tổng thống Mỹ Johnson tuyên bố chấm dứt hoàn toàn việc ném bom, bắn phá và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chấp nhận họp Hội nghị Paris để giải quyết chiến tranh Việt Nam, thừa nhận đại diện chính thức của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tại Hội nghị.

Đúng 10 giờ 30 phút ngày 25/1/1969, Hội nghị đàm phán bốn bên về vấn đề Việt Nam đã khai mạc tại Paris. Các cuộc đàm phán diễn ra từ năm 1969 đến năm 1973 là sự kết hợp giữa diễn đàn công khai bốn bên với gặp riêng cấp cao Việt Nam - Hoa Kỳ. Chủ trương của phía Việt Nam là phối hợp đấu tranh ngoại giao với hoạt động quân sự, chính trị, phá chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, kéo Mỹ xuống thang chiến tranh, bảo đảm cho quân và dân miền Nam tiếp tục chiến đấu mà dư luận vẫn đồng tình ủng hộ với cuộc kháng chiến của Nhân dân Việt Nam.

Trong khi đó tại miền Nam, từ năm 1968, với uy tín ngày càng cao của Mặt trận Dân tộc giải phóng và trên cơ sở phong trào kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ngày càng lớn mạnh, trong vùng giải phóng, chính quyền cách mạng bắt đầu thành lập ở nhiều địa phương. Cho đến cuối năm 1968, các cấp Ủy ban giải phóng đã thành lập ở nhiều nơi, mạnh nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên.

Ở Tây Nguyên, phần lớn Ủy ban giải phóng bắt đầu chuyển thành Ủy ban nhân dân cách mạng. Nhiều địa phương miền Nam tổ chức bầu cử “Hội đồng nhân dân cách mạng”. Hệ thống chính quyền cách mạng đã đem lại cho đồng bào quyền dân sinh, dân chủ, bình đẳng; trong đó quan trọng nhất là đem lại quyền lợi ruộng đất cho nông dân. Nhờ đó, hệ thống chính quyền cách mạng đã thực sự trở thành một nhân tố quyết định thắng lợi cho cách mạng miền Nam.

Lúc này ở miền Nam, vấn đề thành lập một chính quyền cách mạng ở Trung ương với hình thức là một chính phủ trở thành yêu cầu cấp bách cả về đối nội và đối ngoại. Đặc biệt, cuộc đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Paris đòi hỏi có một chính phủ cách mạng đại diện cho Nhân dân miền Nam nhằm nâng cao hơn nữa vị trí, địa vị pháp lý của chính quyền cách mạng miền Nam tại Hội nghị và trên trường quốc tế. Trên thực tế, việc duy trì được một vùng giải phóng rộng lớn, có hệ thống chính quyền cấp cơ sở tương đối đều khắp, có lực lượng vũ trang mạnh, có lực lượng chính trị hùng hậu, thống nhất trong Mặt trận dân tộc rộng rãi đã là điều kiện cần thiết cho việc thành lập một chính quyền như vậy.

Đại biểu tham dự Hội thảo khoa học “Bằng chứng lịch sử và vai trò của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”, tháng 6/2023  

Trước các yêu cầu cấp thiết của cuộc kháng chiến, ngày 25/5/1969, Hội nghị hiệp thương giữa Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các Lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam - một tổ chức chính trị đại diện cho tầng lớp trí thức, tư sản dân tộc tiến bộ ở các thành thị thành lập ngày 20/4/1968, từ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân được tổ chức để thảo luận việc triệu tập Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam. Tại Hội nghị, hai đoàn đại biểu đã thảo luận và nhất trí đánh giá những thắng lợi to lớn mà quân và dân miền Nam đã giành được trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; đồng thời nêu rõ sự cần thiết và thời cơ thuận lợi cho việc thành lập một chính phủ cách mạng lâm thời theo nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.

Trong các ngày 6, 7 và 8/6/1969, Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam đã họp tại Chiến khu Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh. Tham dự Đại hội có các đại biểu đại diện cho các lực lượng yêu nước ở miền Nam Việt Nam, bao gồm các chính đảng, các dân tộc, tôn giáo, các đoàn thể, các tầng lớp nhân dân, các lực lượng vũ trang, đoàn thanh niên xung phong…

Trong Báo cáo Chính trị đọc trước Đại hội, thay mặt Ban trù bị, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam nêu rõ: “Thắng lợi to lớn của quân và dân ta đã dẫn đến sự hình thành các vùng giải phóng rộng lớn từ Nam sông Bến Hải đến tận mũi Cà Mau, tạo một thế đứng mạnh mẽ cho quân và dân ta đánh địch khắp mọi nơi.

Trên những vùng giải phóng đó, chánh quyền cách mạng đã ra đời, một chánh quyền thật sự đại diện nhiều quyền lợi và nguyện vọng chánh đáng của nhân dân ta. Các mặt công tác, sản xuất, văn hóa, giáo dục, thông tin, y tế không ngừng phát triển. Nền móng của một chế độ độc lập, tự do, thật sự dân chủ được xây dựng”4.

Trên cơ sở phân tích sâu sắc về tình thực tế và yêu cầu của cách mạng miền Nam, Đại hội đã nhất trí thông qua bản Nghị quyết cơ bản thành lập chế độ Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Nghị quyết nêu rõ: Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam là cơ quan quyền lực cao nhất, có nhiệm vụ động viên, lãnh đạo toàn quân, toàn dân, lãnh đạo các cấp Uỷ ban nhân dân cách mạng, đẩy mạnh cao trào tổng tiến công và nổi dậy, kết hợp với đấu tranh ngoại giao nhằm đánh bại đế quốc Mỹ xâm lược, đánh đổ ngụy quyền, thực hiện các mục tiêu độc lập, dân chủ, hòa bình tiến tới thống nhất đất nước.

Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được Đại hội đại biểu quốc dân giao toàn quyền điều khiển và giải quyết mọi công tác đối nội và đối ngoại.

Về đối nội, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam có nhiệm vụ thực hiện chính sách của Cộng hòa miền Nam Việt Nam là: Đoàn kết toàn dân, không phân biệt thành phần xã hội, tôn giáo, dân tộc, xu hướng chính trị và quá khứ miễn là tán thành hòa bình, độc lập, trung lập. Đồng thời kiên quyết bảo vệ chủ quyền dân tộc, bảo đảm các quyền tự do dân chủ, tôn trọng tự do tín ngưỡng, thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc, thực hiện các chính sách ruộng đất, phát triển sản xuất, phát triển công thương nghiệp, đẩy mạnh công tác giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội để không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân, nhất là Nhân dân lao động, và động viên sức người, sức của theo khẩu hiệu: Tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng.

Về đối ngoại, thực hiện chính sách ngoại giao hòa bình, trung lập, lập quan hệ ngoại giao với các nước không phân biệt chế độ chính trị và xã hội theo 5 nguyên tắc chung sống hòa bình, thực hiện chính sách láng giềng đối với Campuchia và Lào, tích cực ủng hộ phong trào độc lập dân tộc, chống đế quốc, chống thực dân mới, bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới.

Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam có Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Bộ: Quốc phòng, Ngoại giao, Nội vụ, Kinh tế - Tài chính, Thông tin - Văn hóa, Giáo dục - Thanh niên, Y tế - Xã hội - Thương binh, Tư pháp.

Bản Nghị quyết cũng nêu việc thành lập Hội đồng cố vấn bên cạnh Chính phủ Cách mạng lâm thời có nhiệm vụ và quyền hạn góp ý kiến với Chính phủ Cách mạng lâm thời trong việc đề ra các chủ trương, chính sách đối nội và đối ngoại, trong việc ban hành, bổ sung và sửa đổi các sắc luật, nghị định, chỉ thị, thông tư của Chính phủ.

Đại hội đã bầu Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Hội đồng cố vấn Chính phủ Cách mạng lâm thời. Thành phần Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam gồm: Chủ tịch Chính phủ Huỳnh Tấn Phát; các Phó Chủ tịch là Phùng Văn Cung, Nguyễn Văn Kiết, Nguyễn Đóa. Hội đồng cố vấn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam gồm: Chủ tịch là Luật sư Nguyễn Hữu Thọ; Phó Chủ tịch là Luật sư Trịnh Đình Thảo.

 Trụ sở Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Cam Lộ năm 1973

Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thành lập là một sự kiện trọng đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân Việt Nam. Trong cuộc họp báo ngày 11/6/1969, Chủ tịch Huỳnh Tấn Phát nêu rõ: Việc thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam là một bước phát triển tất yếu của quá trình hoàn chỉnh hệ thống chính quyền cách mạng đã được xây dựng trên phần lớn đất đai ở miền Nam, đáp ứng yêu cầu lớn lao của cuộc chiến đấu là ra sức đẩy mạnh thế tiến công toàn diện trên tất cả các mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra đời nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của các nước anh em và bạn bè trên thế giới. Ngay trong tháng đầu tiên sau khi tuyên bố thành lập (tháng 6/1969) đã có 23 nước công nhận Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và đặt quan hệ ngoại giao ở cấp Đại sứ, trong đó Cuba và Angiêri là hai nước đầu tiên. Sau đó không lâu, số nước công nhận Chính phủ Cách mạng lâm thời lên đến 30 nước.

Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra đời là một thắng lợi trong quá trình hoàn chỉnh hệ thống chính quyền cách mạng ở miền Nam Việt Nam, một chính quyền thực sự dân tộc và dân chủ, là thành quả của cao trào cách mạng, đồng thời đáp ứng những yêu cầu khách quan, bức thiết của cách mạng miền Nam. Với sự ra đời của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, chức năng nhà nước ở miền Nam đã được Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam chuyển giao cho Chính phủ Cách mạng lâm thời, bao gồm cả nhiệm vụ đối nội cũng như đối ngoại, kể cả tư cách đại diện chân chính của Nhân dân miền Nam tại Hội nghị Paris về Việt Nam.

Ngay sau khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập, ngày 5/10/1969, Trung ương Cục miền Nam ra Nghị quyết về xây dựng bộ máy Chính phủ Cách mạng lâm thời và xây dựng chính quyền cách mạng các cấp. Nghị quyết nhấn mạnh: Việc xây dựng hệ thống chính quyền cách mạng “đánh dấu một sự phát triển mới, đồng thời cũng đem lại một tình hình rất mới. Đó là một sự xuất hiện của tình hình có hai hệ thống chính quyền đang đấu tranh rất quyết liệt và phức tạp song song với cuộc đấu tranh toàn diện giữa ta và địch về các mặt chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế, văn hóa… Cuộc đấu tranh xây dựng, củng cố, mở rộng hệ thống chính quyền cách mạng là một bộ phận rất khăng khít của toàn bộ cuộc kháng chiến của quân và dân ta”5.

Nghị quyết cũng nêu rõ nhiệm vụ và cũng là một đặc điểm của việc xây dựng chính quyền cách mạng ở miền Nam là: “Do những điều kiện đặc biệt về đối nội và đối ngoại, ta phải xây dựng một hệ thống chính quyền cách mạng hoàn chỉnh từ Trung ương xuống địa phương trong phạm vi một nửa nước”6.

Quán triệt sự chỉ đạo của Trung ương Cục miền Nam, Chính phủ Cách mạng lâm thời đã nhanh chóng tổ chức và kiện toàn bộ máy làm việc của Hội đồng Chính phủ và các bộ. Bốn Ban đại diện của Chính phủ ở Trung Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ được thành lập nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý vùng giải phóng liên hoàn.

Cùng với việc khôi phục, xây dựng cơ sở cách mạng và lực lượng vũ trang, Trung ương Cục miền Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời chỉ đạo xây dựng vùng giải phóng ngày càng vững mạnh về mọi mặt, trong đó có việc phát triển kinh tế. Nhân dân vùng giải phóng và vùng tranh chấp vẫn bám trụ, đẩy mạnh sản xuất phục vụ nhu cầu cuộc sống và cung cấp lương thực, thực phẩm cho kháng chiến.

Việc thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam cũng như chính quyền nhân dân các cấp đánh dấu sự trưởng thành của cách mạng miền Nam. Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trở thành người đại diện chân chính và duy nhất của Nhân dân miền Nam ở trong nước và bạn bè quốc tế.

Về đối ngoại, ngay sau khi tuyên bố thành lập, Đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã đi thăm các nước như Vương quốc Campuchia, thăm Mặt trận Lào yêu nước ở căn cứ Sầm Nưa, thăm các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Trung Quốc, Anbani, Ba Lan, Bungari, Cuba, Cộng hòa Dân chủ Đức, Hungari, Mông Cổ, Tiệp Khắc, Triều Tiên.

Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ đón tiếp lãnh tụ Cuba Fidel Castro thăm Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Cam Lộ năm 1973 

Tại Hội nghị Paris về Việt Nam, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và tiếp đó là Đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã kiên trì và kiên quyết đấu tranh, góp phần vào việc buộc Mỹ và chính quyền Sài Gòn phải ký Hiệp định Paris về Việt Nam, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và rút hết quân Mỹ về nước theo tinh thần thể hiện trong lập trường 5 điểm và giải pháp toàn bộ 10 điểm của Mặt trận Dân tộc giải phóng và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cùng với sự thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên minh các Lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam, việc thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thể hiện sự sáng tạo độc đáo, mang tính chiến lược của Đảng.

Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trở thành người đại diện chân chính và duy nhất cho Nhân dân miền Nam trên cả lĩnh vực đối nội và đối ngoại. Với sự thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, vị thế và uy tín của cách mạng miền Nam ngày càng cao và mở rộng trên thế giới, Chính phủ Cách mạng lâm thời đã hoàn thành sứ mệnh vẻ vang của mình, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta đến thắng lợi hoàn toàn vào mùa Xuân năm 1975, hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Chú thích:

1.  Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 26. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 174, 175.

2.  Hà Minh Hồng, Trần Nam Tiến: Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (1960-1977). Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2010, tr. 63.

3.  Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 31. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 117.

4. Trần Văn Giàu: Miền Nam giữ vững thành đồng, tập V. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1970, tr. 226-227.

5.   Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam (1954-1975). Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 754, 755.

6.  Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam (1954-1975). sđd, tr. 754, 755.

Đồng chí Đỗ Văn Chiến Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam
Xem thêm
Gửi ban biên tập
Tìm kiếm văn bản