|
Đại lễ Phật đản Vesak 2019 tổ chức tại Trung tâm Văn hóa Tam Chúc, Kim Bảng, Hà Nam. (Nguồn: Ban Tôn giáo Chính phủ) |
Thứ nhất, văn kiện đã đề cập toàn diện về tôn giáo và công tác tôn giáo.
Trong 10 văn bản trình bày ở 2 tập của văn kiện, có 4 văn bản đề cập trực tiếp các nội dung liên quan đến tôn giáo. Đây là lần đầu tiên Đảng ta đề cập trực tiếp các nội dung về tôn giáo và công tác tôn giáo một cách toàn diện, có trọng điểm với dung lượng nhiều nhất so với các kỳ đại hội trước đó. Cụ thể:
Trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, trong hệ thống các nhiệm vụ trung tâm và giải pháp chủ yếu thứ năm, Đảng ta nhấn mạnh: “Tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tôn giáo; có những chính sách đặc thù giải quyết khó khăn cho đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc. Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cản trở sự phát triển của đất nước”1. Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, trong phần xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh của con người Việt Nam, Đảng ta nêu rõ: “Phát huy các nhân tố tích cực, nhân văn trong các tôn giáo, tín ngưỡng. Phê phán và ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, mê tín, dị đoan”2.
Đối với nhiệm vụ, giải pháp thực hiện về công tác tôn giáo, Đảng ta khẳng định: “Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời, đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định của pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự phát triển đất nước. Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; chia rẽ, phá hoại đoàn kết tôn giáo và khối đại đoàn kết toàn dân tộc”3.
Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, Đảng ta xác định: “Thực hiện tốt mục tiêu đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc. Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người theo quy định của pháp luật. Phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo vào giữ gìn và nâng cao đạo đức truyền thống xã hội, xây dựng đời sống văn hóa ở các khu dân cư, góp phần ngăn chặn các tệ nạn xã hội”4.
Trong Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, Đảng ta đã đánh giá những thành tựu và hạn chế liên quan đến tôn giáo. Về thành tựu: “Tình hình tôn giáo ổn định; đa số chức sắc, chức việc và đồng bào có đạo yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, góp phần đấu tranh, phản bác luận điệu xuyên tạc, vu cáo chính quyền vi phạm nhân quyền, tự do tôn giáo”5. Về hạn chế: “Quản lý Nhà nước về văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo, tín ngưỡng có mặt còn hạn chế. Có hiện tượng thương mại hóa các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở một số nơi”6. Về dự báo bối cảnh quốc tế và khu vực, Đảng ta chỉ rõ: “Chủ nghĩa dân tộc, cực đoan, xung đột cục bộ, sắc tộc, tôn giáo... là những thách thức lớn đe dọa sự ổn định và phát triển ở một số khu vực, quốc gia”7. Về nhiệm vụ, giải pháp, Đảng ta nhấn mạnh: “Tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt đúng quy định của pháp luật; chủ động giúp đỡ, giải quyết các nhu cầu hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh của quần chúng, đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác tôn giáo”8.
|
Đại hội XIII của Đảng |
Thứ hai, Đảng ta đánh giá khách quan, khái quát những điểm cốt lõi về tình hình tôn giáo và công tác tôn giáo ở nước ta.
Đảng ta đánh giá: “Tình hình tôn giáo ổn định” là hoàn toàn chính xác. Trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt trong những năm gần đây, các tôn giáo ở Việt Nam luôn đồng hành cùng dân tộc, được Nhà nước quan tâm, tạo điều kiện và bảo đảm hoạt động, sinh hoạt tôn giáo theo đúng quy định của pháp luật. Không có những mâu thuẫn giữa các tôn giáo và trong nội bộ từng tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo luôn có sự phối hợp, liên kết dưới mái nhà chung Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở các cấp để tham gia các hoạt động ích nước, lợi dân, được chính quyền và xã hội đánh giá cao.
Đảng, Nhà nước ta trân trọng ghi nhận, biểu dương những kết quả, đóng góp của đồng bào có đạo trong sự nghiệp cách mạng nói chung, thời kỳ đổi mới nói riêng, đó là: luôn yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước; phát huy lòng yêu nước, truyền thống tốt đẹp của con người, văn hóa Việt Nam và những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo đã luôn kề vai sát cánh, đồng hành cùng dân tộc, có những đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, thông qua các hoạt động (cả trong nước và quốc tế), các tôn giáo, tổ chức tôn giáo ở Việt Nam đã góp phần quan trọng trong quảng bá hình ảnh một Việt Nam văn hiến, thân thiện, hòa bình, nhân ái, làm cho bạn bè quốc tế có cái nhìn thiện cảm, chính xác về Việt Nam, về tình hình tôn giáo ở Việt Nam, đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc, vu cáo chính quyền vi phạm nhân quyền, tự do tôn giáo.
Đảng ta cũng chỉ ra những hạn chế cơ bản, nổi cộm về tôn giáo, đó là: quản lý nhà nước về tôn giáo có mặt còn hạn chế và còn có các hiện tượng thương mại hóa các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở một số nơi. Đây cũng là một trong những vấn đề được dư luận hết sức quan tâm trong thời gian qua.
Trong dự báo tình hình quốc tế và khu vực thời gian tới, Đảng ta xác định, vấn đề xung đột tôn giáo là một trong những thách thức lớn đe dọa sự ổn định và phát triển ở một số khu vực, quốc gia.
Thứ ba, Đảng ta tiếp tục khẳng định và bổ sung một số nội dung về tôn giáo và công tác tôn giáo trong tình hình mới
Trong văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta có nhiều nội dung bổ sung, cập nhật, kế thừa, tiếp thu những ý kiến đóng góp quý báu của các nhà lãnh đạo, quản lý, quản trị về tôn giáo, các nhà khoa học và tín đồ, chức sắc của các tôn giáo, cụ thể như sau:
Một là, quan điểm tiếp tục phát huy vai trò, tác động tích cực của tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong đó, Đảng ta nhấn mạnh yếu tố văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng ghi rõ: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự phát triển đất nước”.
Ở Việt Nam, các thuật ngữ: “nguồn lực tôn giáo”, “nguồn lực các tôn giáo”, “các nguồn lực của các tôn giáo”… mới được đề cập mấy năm trở lại đây. Tuy chưa có công trình nào nghiên cứu một cách công phu, toàn diện cả về nội hàm và ngoại diên các thuật ngữ trên, song ít nhiều các nhà khoa học, các nhà lãnh đạo, quản lý, quản trị hay chính các chức sắc tôn giáo cũng có quan niệm nhất định về nguồn lực tôn giáo theo các cách tiếp cận khác nhau, tùy thuộc vào ưu thế, sự đóng góp của các tôn giáo nói chung, từng tôn giáo nói riêng trong từng giai đoạn, hoàn cảnh cụ thể khác nhau.
Các quan niệm về các nguồn lực của các tôn giáo đều thống nhất ở những điểm sau: khẳng định vai trò của tôn giáo, coi những tác động tích cực của các tôn giáo là một trong những nguồn lực quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đều thừa nhận các nguồn lực của các tôn giáo ở hai phương diện: nguồn lực tinh thần và nguồn lực vật chất, trong đó nhấn mạnh nhiều hơn ở nguồn lực tinh thần - đó là các giá trị về văn hóa, đạo đức tôn giáo; các nguồn lực của các tôn giáo đã tham gia vào tất cả các quá trình, lĩnh vực trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong đó ưu thế, đóng góp tiêu biểu ở các lĩnh vực giáo dục, y tế, an sinh xã hội, từ thiện nhân đạo.
Thuật ngữ “nguồn lực” khi nhận định về những đóng góp của các tôn giáo trong Chỉ thị số 18-CT/TW (2018) của Bộ Chính trị khóa XII tiếp tục được khẳng định và bổ sung thành “các nguồn lực của các tôn giáo”. Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo. Hiện nay, Nhà nước đã công nhận và cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo cho 43 tổ chức, thuộc 16 tôn giáo với hơn 27 triệu tín đồ, chiếm khoảng 28% dân số cả nước, trên 55.000 chức sắc, gần 150.000 chức việc, gần 30.000 cơ sở thờ tự9. 16 tôn giáo gồm: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Hồi giáo, Tôn giáo Baha’I, Tịnh độ Cư sỹ Phật hội, Cơ đốc Phục lâm, Phật giáo Tứ Ân Hiếu nghĩa, Minh Sư đạo, Minh lý đạo - Tam Tông Miếu, Bà-la-môn giáo, Mặc môn, Phật giáo Hiếu Nghĩa Tà Lơn, Bửu Sơn Kỳ Hương10. Quan điểm của Đảng về “các nguồn lực của các tôn giáo” xác định là những nguồn lực của các tôn giáo, tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận nêu trên. Các nguồn lực của các tôn giáo rất đa dạng: nguồn lực con người có tôn giáo; nguồn lực từ cơ sở vật chất, nguồn vốn, khả năng vận động, huy động tài chính; những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo.... Những nguồn lực này được sử dụng vào việc “Đời”, ích nước, lợi dân thì đó là một trong những nguồn lực cần phát huy trong phát triển đất nước.
Tại Đại hội lần này, Đảng ta tiếp tục khẳng định và nhấn mạnh đến những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Chúng ta cần phát huy những “nhân tố tích cực, nhân văn trong các tôn giáo, tín ngưỡng”, “giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo” vào giữ gìn và nâng cao đạo đức truyền thống xã hội, xây dựng đời sống văn hóa ở các khu dân cư, góp phần ngăn chặn các tệ nạn xã hội, phê phán và ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, mê tín, dị đoan.
Hai là, thực hiện đoàn kết tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây là mục tiêu trong thực hiện công tác tôn giáo. Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta. Từ xưa đến nay, chính tinh thần đoàn kết để dựng nước và giữ nước, người có đạo khác nhau, giữa người có đạo và không có đạo ở Việt Nam luôn có sự tôn trọng, chung sống hòa hợp. Thế nên, Đảng ta đặt mục tiêu của công tác tôn giáo là đoàn kết tôn giáo trong mục tiêu chung đại đoàn kết toàn dân tộc là phù hợp, kế thừa, phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, phản ánh đúng ý chí, khát vọng của người Việt Nam hiện nay, trong đó có đồng bào có đạo.
Ba là, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho mọi người. Đây là sự khái quát đầy đủ chủ trương nhất quán của Đảng ta đối với vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo. Bảo đảm ở đây bao hàm cả sự tôn trọng, quan tâm, tạo điều kiện về mặt pháp lý lẫn thực tế đối với quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người. Đối tượng bảo đảm ở đây được mở rộng là “con người”, không những là tổ chức, “nhân dân”, “công dân” ở trong nước mà còn là tổ chức, cá nhân người nước ngoài có tôn giáo khi họ sinh sống, học tập, làm việc ở Việt Nam cũng như người Việt ở nước ngoài khi về quê hương.
Bốn là, sự chủ động trong tiến hành công tác tôn giáo. Chủ động lắng nghe, giải quyết kịp thời nguyện vọng chính đáng của nhân dân là quan điểm, thực tiễn sinh động khẳng định tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, vai trò lãnh đạo đất nước không thể thay thế được của Đảng Cộng sản Việt Nam. Công tác tôn giáo cũng vậy, cần có sự chủ động để kịp thời phát huy những tác động tích cực, hạn chế, phê phán, đấu tranh, xử lý các biểu hiện tiêu cực liên quan đến tôn giáo.
Trong văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta khẳng định sự chủ động nhằm giải quyết đồng thời hai nhiệm vụ: 1) Giúp đỡ, giải quyết các nhu cầu hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh của quần chúng. 2) Phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hai nhiệm vụ này cần được tiến hành song song, đề cao tính chủ động của hệ thống chính trị, nhất là các cơ quan chức năng là hết sức cần thiết.
Năm là, vai trò của quản lý nhà nước về công tác tôn giáo.
Đảng ta đánh giá tầm quan trọng, vai trò của quản lý nhà nước về công tác tôn giáo ở nước ta: “Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác tôn giáo”. Quan điểm trên nhấn mạnh đến yếu tố quản lý nhà nước đối với các hoạt động liên quan đến tôn giáo, trong đó quản lý nhà nước về công tác tôn giáo phải là trung tâm, các cơ quan chức năng phải có đủ năng lực, hệ thống luật pháp, cơ chế bảo đảm phù hợp và đảm bảo nâng cao chất lượng hiệu quả tiến hành công tác tôn giáo.
Như vậy, những nội dung liên quan đến tôn giáo, công tác tôn giáo được đề cập trong văn kiện Đại hội XIII thể hiện Đảng ta đã kế thừa, bổ sung, tiếp thu những đóng góp quý báu từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, nhất là nguyện vọng của đồng bào có đạo, phù hợp với thực tiễn sinh động của đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta. Đây là cơ sở định hướng trong nhận thức và thực hiện có hiệu quả công tác tôn giáo, tiếp tục phát huy “các nguồn lực của các tôn giáo” cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đồng thời đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá cách mạng nước ta. Để phát huy có hiệu quả các nguồn lực của các tôn giáo, chúng ta phải sử dụng tổng hợp các phương thức tác động phù hợp, nhìn nhận khách quan những tác động của tôn giáo đối với xã hội, cả tác động tích cực, tiêu cực, không đề cao quá mức cũng không phủ nhận sự đóng góp của các tôn giáo; có cơ chế, chính sách đúng đắn, kịp thời, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các tôn giáo sử dụng các nguồn lực của mình tham gia vào các hoạt động phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trung tá, ThS. Nguyễn Ngọc Hương
---------------------------------------------
Chú thích
(1) (2) (3) (4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.50-51, 144, 171, 272.
(5) (6) (7) (8) Đảng Cộng sản Việt Nam:Sđd, t.2, tr.45, 73, 87-88, 141.
(9) Ban Tôn giáo Chính phủ: Công tác tôn giáo 2021, Nxb. Tôn giáo, H, 2021, tr.44-66.
(10) Bộ Nội vụ: Danh mục các tổ chức tôn giáo, tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo tính đến tháng 12/2020 (Kèm theo Công văn số 6955/BNV-TGCP ngày 28/12/2020 của Bộ Nội vụ).
Theo tuyengiao.vn