|
Hội nghị Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ 15, khóa IX, nhiệm kỳ 2019 - 2024. ẢNH: QUANG VINH |
Đánh giá tình hình phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng ghi nhận: Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực chính trị và kinh tế. Nhiều cấp ủy đảng, chính quyền đã lắng nghe, tăng cường tiếp xúc, đối thoại với Nhân dân, tôn trọng các ý kiến khác nhau. Coi trọng, chăm lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người, bảo vệ và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà nước ta ký kết1. Đại hội Đảng XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh việc thực hành và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa: “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân; tăng cường tạo đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội”2.
Pháp luật về phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân ngày càng hoàn thiện
Đảng và Nhà nước tiếp tục ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được xác định đầy đủ hơn trong Hiến pháp năm 2013 và trong hệ thống pháp luật mới được ban hành và sửa đổi. Khẳng định rõ các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm công dân đối với xã hội. Ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của Nhân dân, ý thức về dân chủ trong xã hội được nâng lên. Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn có nhiều tiến bộ.
Về mặt pháp lý, bên cạnh việc khẳng định thiết chế dân chủ đại diện, các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992, 2013 của Việt Nam đều đã quy định một số hình thức dân chủ trực tiếp, thể hiện sự nhất quán nguyên tắc: dân chủ trực tiếp là cách thể hiện chân thực, nguyên vẹn nhất ý chí, nguyện vọng của Nhân dân. Hiến pháp năm 1946 quy định: “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc có quan hệ đến vận mệnh quốc gia…”(Điều 21) và quyền bãi miễn nhân viên Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính (Điều 61). Các bản Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 và 2013 đều tiếp tục ghi nhận trưng cầu ý dân và bãi miễn đại biểu dân cử là hai hình thức dân chủ trực tiếp. Hai hình thức còn lại của dân chủ trực tiếp là sáng kiến công dân và sáng kiến chương trình nghị sự chỉ mới được đề cập trong Hiến pháp 2013.
Các quy định về hình thức dân chủ trực tiếp trong những bản Hiến pháp nêu trên của Việt Nam chưa hoàn thiện và chỉ dừng ở nguyên tắc, chưa được thể chế hóa thành các quy định pháp luật. Cụ thể, với hình thức bãi miễn đại biểu dân cử, cử tri mới chỉ có quyền đề xuất, chứ chưa có quyền bỏ phiếu. Các Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 phạm vi bãi miễn chỉ bao gồm đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Đối với hình thức trưng cầu ý dân, Hiến pháp năm 1946 quy định rõ việc sửa đổi Hiến pháp nhất thiết phải được đưa ra toàn dân phúc quyết, còn những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia thì nghị viện sẽ đưa ra phúc quyết nếu có ít nhất hai phần ba tổng số nghị viên tán thành, các Hiến pháp khác đều không quy định cụ thể những việc cần đưa ra để Nhân dân biểu quyết, cũng như những quy trình, thủ tục trong vấn đề này. Hiến pháp năm 2013 quy định trách nhiệm của Ủy ban dự thảo Hiến pháp phải tổ chức lấy ý kiến Nhân dân và trình Quốc hội dự thảo Hiến pháp. Có thể nói, sự ra đời của Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở pháp lý cho việc thúc đẩy dân chủ trực tiếp ở Việt Nam. Cùng với việc tiếp tục khẳng định các quy định về trưng cầu ý dân, bãi miễn đại biểu dân cử và quyền tham gia quản lý nhà nước, xã hội của người dân như đã nêu trong các Hiến pháp năm 1980, 1992, Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên quy định cụ thể Nhân dân có hai phương thức thực hiện quyền lực nhà nước là bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện (Điều 6). Thêm vào đó, Hiến pháp năm 2013 một lần nữa tiếp tục ghi nhận quyền cho ý kiến về dự thảo Hiến pháp của Nhân dân (khoản 3 Điều 120) đã từng được quy định trong Hiến pháp 1946. Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 xác định trách nhiệm của Nhà nước: “… tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân” (Điều 28). Những quy định mới này góp phần củng cố nền tảng hiến định về dân chủ trực tiếp ở nước ta, đồng thời cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết về hoàn thiện khuôn khổ pháp luật để thực thi các quy định trong thực tế.
Hiến pháp năm 2013 ra đời đã tạo cơ sở pháp lý để ban hành các đạo luật quan trọng về mở rộng và phát huy dân chủ trực tiếp, như: Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Công đoàn, Luật Thanh niên, Luật Trưng cầu ý dân, Luật Tiếp cận thông tin... Ngoài ra, cơ sở pháp lý về dân chủ trực tiếp được quy định trong một số văn bản như Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2007 “Về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn”, Nghị định số 04/NĐ/CP ngày 24/1/2013 “Về thực hiện dân chủ trong hoạt động cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập”, Nghị định số 60/NĐ-CP ngày 19/6/2013 “Quy định chi tiết khoản 3 Điều 63 của Bộ luật Lao động về thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc”…
Ngoài ra, Nhà nước đã và đang hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền làm chủ của Nhân dân, như: Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Pháp lệnh thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Luật Trưng cầu ý dân, Luật Tiếp cận thông tin,... Đặc biệt, sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành, nhiều văn bản quy phạm pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực đã được sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới, trong đó bao gồm các nội dung về quyền con người, quyền công dân. Chỉ tính từ tháng 1/2014 đến nay, đã có khoảng hơn 100 luật, pháp lệnh được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua, trong đó có nhiều luật quan trọng về quyền con người, chẳng hạn như: Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Bộ luật Dân sự năm 2015; Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Bộ luật Dân sự năm 2015; Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015; Luật Tiếp cận thông tin năm 2016; Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016; Luật Báo chí năm 2016; Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017; Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017; Luật An ninh mạng năm 2018; Luật Tố cáo năm 2018; Luật Đặc xá năm 2018... Các đạo luật này đã quy định đầy đủ, rõ ràng hầu hết các quyền dân sự và chính trị; các cơ chế bảo đảm và phát huy các quyền này tại Việt Nam; tạo ra bước tiến mới trong đảm bảo quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh, sản xuất, mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm...
Một số kết quả thực hiện pháp luật về phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân
Thực hiện pháp luật về dân chủ trực tiếp ở cơ sở
Việc triển khai Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở cơ sở trong thực tiễn đã đạt được nhiều kết quả nhất định. Theo thống kê, việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở xã, phường, thị trấn ở một số tỉnh, thành phố thời gian qua cho thấy đến nay 100% xã, phường, thị trấn đã xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Việc thực hiện cải cách hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông đã được triển khai rộng khắp các đơn vị hành chính cấp xã; 95% xã, phường, thị trấn thực hiện niêm yết công khai các thủ tục hành chính, các khoản phí, lệ phí, đóng góp của dân, công khai các phương án sản xuất, việc giải quyết các thủ tục hành chính, chế độ chính sách… Nhiều thủ tục đã được tinh gọn, giảm bớt phiền hà cho Nhân dân, phong cách làm việc của cán bộ xã, phường, thị trấn đã có những thay đổi đáng kể.
Về nội dung Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp được thực hiện tốt nhất với sự tham gia, phối hợp tích cực giữa chính quyền xã, phường, thị trấn với Nhân dân ở cộng đồng dân cư nông thôn. Nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và toàn xã hội về dân chủ và dân chủ trực tiếp của Nhân dân có nhiều chuyển biến tích cực. Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã góp phần phát huy được vai trò, tiềm năng, sức sáng tạo của Nhân dân tham gia bàn bạc những công việc của địa phương, đất nước; góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật, hương ước, quy ước, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền, tham gia giám sát hoạt động của cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư.
Bên cạnh đó, nhằm phát huy dân chủ, vận động Nhân dân giám sát thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn, vận động Nhân dân giám sát những nội dung được quy định, nhất là việc quản lý đất đai, công khai các thủ tục hành chính liên quan trực tiếp đến dân. Nhiều vụ việc cán bộ chính quyền cơ sở vi phạm pháp luật đã được Nhân dân phát hiện, kiến nghị xử lý. Ngoài ra, vai trò của Ban Thanh tra nhân dân đã được phát huy, thể hiện ở việc nhận và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, tham gia cùng chính quyền thực hiện tốt công tác tiếp dân và theo dõi việc giải quyết đơn thư của chính quyền... Những hoạt động đó làm chuyển biến một bước phong cách lãnh đạo, quản lý của cán bộ cơ sở, hạn chế tham nhũng, quan liêu, hách dịch, góp phần làm trong sạch bộ máy nhà nước, nâng cao hiệu quả quản lý của chính quyền cơ sở.
Thực hiện chế độ Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử
Chế định Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử được quy định trong Hiến pháp và các đạo luật đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng, tạo điều kiện đảm bảo ngày càng tốt hơn cho sự tham gia của Nhân dân trong hoạt động thực hiện quyền lực tư pháp thông qua việc giải quyết, xét xử các loại vụ án. Thực tiễn Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử cho thấy: Đội ngũ Hội thẩm được xây dựng và kiện toàn bảo đảm về tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật và đủ về số lượng, cơ cấu, đáp ứng yêu cầu giải quyết, xét xử các loại vụ án trong thời gian qua. Đa số các Hội thẩm đều đảm bảo có trình độ hiểu biết pháp luật ở mức độ nhất định, nhiều người nguyên là cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật đã nghỉ hưu, một số người tham gia nhiều nhiệm kỳ công tác Hội thẩm đã và đang có những đóng góp quan trọng cho công tác xét xử của các Tòa án.
Về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân
Việc tiếp cận thông tin hoạch định chính sách và xây dựng pháp luật được thực hiện một cách chủ động công khai, minh bạch các hoạt động hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật trong thời gian qua đã được thực thi khá tốt trên thực tế. Các văn bản đã được cơ quan soạn thảo chủ động trong việc công khai dự thảo văn bản để người dân tham gia đóng góp ý kiến qua các cuộc hội thảo, tọa đàm, phiếu lấy ý kiến, đăng dự thảo trên Trang thông tin điện tử. Bên cạnh đó, các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật khi xây dựng được cập nhật trên các phương tiện thông tin đại chúng để công dân tham gia đóng góp ý kiến.
Trong giải quyết công việc của công dân, cơ chế “một cửa” tại các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đã tạo thuận lợi cho công dân, tổ chức, doanh nghiệp khi tham gia giao dịch với cơ quan nhà nước. Qua quá trình xây dựng, công nghệ thông tin đã đóng vai trò trụ cột của Chính phủ điện tử đã được hình thành, giúp đổi mới lề lối làm việc trong các cơ quan nhà nước và công tác chỉ đạo, điều hành dựa trên dữ liệu số, cũng như cung cấp dịch vụ công trực tuyến cho người dân, doanh nghiệp.
Quyền làm chủ của Nhân dân tiếp tục được củng cố và có những bước tiến quan trọng, quyền dân chủ trực tiếp thông qua hoạt động bầu cử, ứng cử; trưng cầu ý dân, bãi miễn đại biểu dân cử; tham gia vào quản lý nhà nước (đóng góp ý kiến; khiếu nại, tố cáo; đối thoại dân chủ; thảo luận, phản biện): quá trình soạn thảo, lấy ý kiến rộng rãi của toàn dân về dự thảo Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện đây thực sự là cuộc sinh hoạt chính trị rộng lớn. Trong đợt lấy ý kiến Nhân dân cả nước về sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã tổ chức được 28.000 hội thảo, hội nghị, tọa đàm và thu được 26 triệu lượt ý kiến góp ý về nội dung Hiến pháp3; tỷ lệ người dân đi bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp đều ở tỷ lệ rất cao, trên 90%. Nhà nước đã và đang hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền làm chủ của Nhân dân, như: Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Pháp lệnh thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Luật Trưng cầu ý dân, Luật Tiếp cận thông tin...
Như vậy, có thể khẳng định, những kết quả đạt được trên đây là do “Đảng và Nhà nước coi trọng việc đề ra và tổ chức chỉ đạo thực hiện nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật, quy chế, quy định mới nhằm phát huy hơn nữa dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân. Hiến pháp năm 2013 quy định rõ: Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân”4.
Giải pháp hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực hiện, phát huy quyền làm chủ và vai trò chủ thể của Nhân dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045
Thứ nhất, tiếp tục khẳng định vai trò chủ thể của Nhân dân đối với quyền lực Nhà nước; không ngừng mở rộng và phát huy quyền làm chủ của người dân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, bảo đảm Nhà nước thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, trong sạch, vững mạnh, phòng ngừa và kiểm soát hiệu quả tình trạng tham nhũng và các biểu hiện tha hóa quyền lực. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị trên cơ sở mở rộng hơn nữa các hình thức dân chủ trực tiếp và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của dân chủ đại diện, khắc phục tình trạng dân chủ hình thức.
Trong giai đoạn từ nay đến năm 2030, hoàn thiện cơ chế thực hiện, phát huy vai trò các chủ thể của Nhân dân theo hướng ban hành mới và bổ sung, hoàn thiện thể chế hiện hành về dân chủ trên cơ sở cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp năm 2013. Trong giai đoạn từ 2030 đến 2045 cân nhắc tiến hành những giải pháp căn cơ hơn, trong đó có thể bao gồm cả việc sửa đổi Hiến pháp năm 2013 để bảo đảm và phát huy tốt hơn quyền làm chủ, vai trò chủ thể của Nhân dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thứ hai, tạo dựng cho được một hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu của nguyên tắc pháp quyền, theo đó tinh thần thượng tôn pháp luật, trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm phục vụ của Nhà nước trước Nhân dân được đề cao và được hiện thực hóa trong đời sống xã hội; công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm; pháp luật phải thực sự là môi trường an toàn, lành mạnh, đủ rộng về không gian pháp lý để người dân làm ăn và sinh sống; pháp luật là cơ sở để tổ chức, thực hiện quyền làm chủ của người dân, quyền lực nhà nước, được các cơ quan nhà nước nghiêm chỉnh chấp hành, áp dụng công bằng, nhất quán và không thiên vị. Đồng thời, thể chế Nhà nước pháp quyền đủ sức khắc phục được tình trạng làm ăn trái pháp luật, tham nhũng, tiêu cực đang là quốc nạn, đấu tranh tiến tới xóa bỏ cho được những thói xấu như cục bộ, cửa quyền, cát cứ, lãng phí của công, lạm dụng của công.
Đẩy mạnh cải cách bộ máy nhà nước trên cơ sở nguyên tắc dân chủ, pháp quyền bảo đảm có được một bộ máy nhà nước gọn nhẹ, hiệu lực, hiệu quả, phục vụ Nhân dân và thực sự là công cụ của Nhân dân trong việc thể hiện, thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân, theo hướng: (1) Phân công, phân cấp, phân quyền rõ ràng, minh bạch với trách nhiệm giải trình cao; (2) Quyền lực nhà nước bị giới hạn và kiểm soát bởi pháp luật, thực chất là bởi Nhân dân; (3) Đề cao trách nhiệm của Nhà nước trước Nhân dân về tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân chủ, quyền công dân, quyền con người; (4) Đủ năng lực để nghiêm trị những hành vi tham nhũng, tiêu cực, những hành vi tha hóa quyền lực Nhân dân, những hành vi vi phạm quyền làm chủ của Nhân dân, những hành vi lợi dụng dân chủ làm tổn hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc, gây mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội; (5) Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức thực tài, chuyên nghiệp, am hiểu pháp luật, tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân.
Tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên nhằm làm tròn quyền và trách nhiệm mà Hiến pháp năm 2013 quy định là “cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, đại diện, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước” (Điều 9); đồng thời phát huy “vai trò nòng cốt để nhân dân làm chủ” theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng.
Thứ ba, hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực hiện, phát huy quyền làm chủ và vai trò chủ thể của Nhân dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó:
Một là, khẳng định trong Cương lĩnh, Chiến lược của Đảng nguyên tắc tất cả quyền lực, bao gồm quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, quyền lực xã hội thuộc về Nhân dân; quyền lực Nhà nước thống nhất thuộc về nhân dân. Khẳng định sâu sắc hơn nữa chủ quyền nhân dân trong Hiến pháp năm 2013: thực hiện toàn dân phúc quyết Hiến pháp, xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Xác định rõ và đề cao hơn nữa trách nhiệm của Nhà nước trong sứ mệnh tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của người dân, bao gồm: (1) Thể chế hóa các quyền làm chủ của Nhân dân trong các lĩnh vực; (2) Xây dựng cơ chế pháp lý để Nhân dân thực hiện quyền làm chủ theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân quyết định, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; (3) Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ban hành cơ chế để Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội và Nhân dân thực hiện có hiệu quả, chất lượng vai trò giám sát và phản biện xã hội; (4) Bảo vệ quyền làm chủ của người dân bằng cách xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lợi dụng dân chủ, gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội hoặc vi phạm dân chủ, làm phương hại đến quyền làm chủ của Nhân dân.
Hai là, tiếp tục thực hiện việc phân công thẩm quyền thật rành mạch, trên cơ sở đó có phương thức phối hợp nhịp nhàng, tự kiểm soát giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; tránh tình trạng chồng chéo, trùng lặp hoặc buông lỏng quản lý. Đồng thời, xây dựng cho được một cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước đủ mạnh. Bên cạnh kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước, đề cao kiểm soát quyền lực từ phía Nhân dân với tư cách là chủ thể của quyền lực thông qua việc ghi nhận, bảo đảm thực hiện quyền dân chủ trực tiếp đầy đủ hơn nữa và đề cao vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội.
Hoàn thiện cơ chế tham dự và có ý kiến phản ánh của Nhân dân, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại các kỳ họp, phiên họp Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ và chính quyền địa phương. Đổi mới các chế định về sự tham gia trực tiếp của Nhân dân vào hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp theo hướng thực chất và hiệu quả như chế định phản biện và giám sát xã hội của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đối với toàn bộ quá trình soạn thảo, ban hành và tổ chức thi hành chính sách, pháp luật; chế định Hội thẩm nhân dân thực sự đại diện cho tiếng nói của Nhân dân trong quá trình xét xử các vụ việc tại Tòa án.
Ba là, hoàn thiện chế định dân chủ đại diện và các hình thức của dân chủ đại diện theo hướng thực chất, nâng cao trách nhiệm, đặc biệt trách nhiệm giải trình của các thiết chế dân chủ đại diện trước cử tri, lấy sự hài lòng của người dân, mức độ bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân làm tiêu chí đánh giá quan trọng nhất. Hoàn thiện pháp luật về bầu cử theo hướng đại biểu phải gắn bó suốt nhiệm kỳ và thực hiện lời hứa với người dân, phản ánh được ý chí nguyện vọng của người dân, không còn đại diện chung chung, hình thức. Đại biểu phải chịu sự giám sát của Nhân dân, gắn trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn với sự tín nhiệm của Nhân dân, khi không hoàn thành được vai trò đại diện quyền lợi và nguyện vọng của cử tri bầu cho thì họ phải bị cử tri bãi miễn. Nâng cao tính dân chủ của bầu cử và chất lượng đại biểu trên cơ sở đổi mới chế độ bầu cử theo hướng mỗi một khu vực bầu cử chỉ bầu một đại biểu, khuyến khích ứng cử, bảo đảm tính cạnh tranh cao và thực chất trong bầu cử. Đổi mới tổ chức Quốc hội theo hướng bảo đảm tốt hơn thể chế dân chủ đại diện, cụ thể Quốc hội hoạt động thường xuyên và chuyên trách, hạn chế số lượng đại biểu đồng thời là công chức trong các cơ quan hành pháp và tư pháp của Nhà nước. Hoàn thiện cơ chế để cử tri (Nhân dân) thực hiện quyền bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân không còn được Nhân dân tín nhiệm.
Bốn là, tiếp tục hoàn thiện thể chế dân chủ, trong đó chú trọng đến hoàn thiện các chính sách, pháp luật sau:
(1) Xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản và quy định pháp luật về thực hiện và phát huy quyền làm chủ và vai trò chủ thể của Nhân dân.
(2) Hoàn thiện pháp luật bầu cử, ứng cử, bãi miễn theo hướng đề cao thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy tốt hơn nữa quyền làm chủ và vai trò chủ thể của Nhân dân.
(3) Hoàn thiện và triển khai thi hành Luật Trưng cầu ý dân. Cần ban hành nghị định hướng dẫn thi hành các quy định của Luật Trưng cầu ý dân năm 2015.
(4) Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin phù hợp với Hiến pháp năm 2013, chú trọng mở rộng phạm vi các chủ thể có nghĩa vụ cung cấp thông tin, thể chế hóa trách nhiệm giải trình trong việc thực hiện nhiệm vụ cung cấp, công khai thông tin của các cơ quan hành chính nhà nước, qua đó phát huy vai trò nhân dân kiểm soát các cơ quan nhà nước... Xây dựng hệ thống thông tin quốc gia về thủ tục hành chính và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, nhằm mục tiêu là giảm phiền hà cho người dân, doanh nghiệp, loại bỏ những lực cản mà bộ máy hành chính có thể gây ra đối với sự phát triển của xã hội nói chung và phát triển kinh tế nói riêng. Nâng cao vai trò của các phương tiện truyền thông đại chúng chính thống trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin. Đẩy mạnh cơ chế giám sát của Nhân dân và công luận trong thực hiện công khai, minh bạch.
(5) Ban hành Luật Dân chủ cơ sở trên cơ sở bổ sung, phát triển Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007.
Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về: “Tổ chức Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”, cụ thể hóa phương châm “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”, đặc biệt là mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân theo tinh thần quy định của Hiến pháp năm 2013: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”.
Năm là, nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức về quyền làm chủ và vai trò chủ thể của Nhân dân. Đội ngũ cán bộ, công chức cần nhận thức đúng, đầy đủ về trách nhiệm của bộ máy nhà nước, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đối với Nhân dân và về việc tham gia của người dân là tất yếu theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân quyết định, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Xây dựng các cơ quan chính quyền (nhất là ở cơ sở) thân thiện đối với người dân. Cán bộ, công chức phải luôn thể hiện tinh thần phục vụ khi giải quyết những công việc với người dân, phải bảo đảm tôn trọng, cầu thị với người dân. Thường xuyên giám sát, đánh giá công tác phục vụ Nhân dân của các cơ quan, cá nhân cán bộ, công chức, viên chức; sử dụng tiêu chí hài lòng của Nhân dân là thước đo đánh giá hoạt động của các cơ quan nhà nước, năng lực của người đứng đầu cơ quan đó; sử dụng tiêu chí về sự tham gia của Nhân dân trong ban hành và thực hiện quyết định liên quan đến cuộc sống người dân để đánh giá hoạt động của cơ quan nhà nước.
Sáu là, nâng cao hiểu biết và năng lực thực hiện các quyền dân chủ của người dân. Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật về dân chủ. Nâng cao ý thức và năng lực của Nhân dân về vai trò là chủ, làm chủ trong quản lý nhà nước và xây dựng chính quyền phục vụ Nhân dân, quyền và trách nhiệm công dân trong xây dựng đất nước. Thông qua các đoàn thể nhân dân ở địa phương, hướng dẫn Nhân dân thực hiện quyền là chủ và làm chủ. Các tổ chức tự quản của cộng đồng dân cư phải được bồi dưỡng, nâng cao năng lực để có thể thực hiện quyền làm chủ và hướng dẫn cộng đồng thực hiện quyền làm chủ.
Bảy là, xây dựng hoàn thiện cơ chế để bảo vệ tốt hơn các quyền làm chủ của Nhân dân, nghiên cứu hoàn thiện cơ chế bảo đảm người dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo hành chính của mình hiệu quả hơn; tiến tới thực hiện quyền khiếu kiện trước cơ quan tài phán Hiến pháp để bảo vệ quyền tự do hiến định của mình bị vi phạm bởi các cơ quan nhà nước. Phúc quyết Hiến pháp, thành lập cơ quan bảo hiến để bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp, coi đó là giá trị tối cao của ý chí toàn thể Nhân dân. Cơ quan bảo hiến có đủ khả năng kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án, Viện kiểm sát và chính quyền địa phương. Cơ quan bảo hiến phải đảm bảo sự độc lập với các cơ quan này.
Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 166-167.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, tr. 118.
3. Trần Văn Phòng, “Góp phần bác bỏ ý kiến cho rằng “Việt Nam hiện nay phải chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ”, trong Hội đồng lý luận Trung ương (2017), Phê phán các quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng cương lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 323.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 167.
Lê Tiến Châu - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
Nguyên Phó Chủ tịch - Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Bí thư Thành ủy thành phố Hải Phòng nhiệm kỳ 2020 - 2025.