|
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm hỏi nhân dân trên địa bàn dân cư thôn 5, xã Yên Sở, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội tại Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc_Ảnh: TTXVN |
Niềm tin chính trị của nhân dân - yếu tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, niềm tin là một hình thái của ý thức xã hội thuộc về kiến trúc thượng tầng, ra đời trên cơ sở hạ tầng tương ứng. Trong xã hội có giai cấp, niềm tin của con người không thể không có quan hệ với chính trị. Nói cách khác, dù nhận biết được hay không nhận biết được, dù ít hay nhiều, niềm tin trong xã hội có giai cấp đều liên quan đến chính trị, xuất phát từ chính trị, do chính trị chi phối.
Niềm tin chính trị của nhân dân là sự tin tưởng, kỳ vọng vào đảng phái chính trị nhất định, cụ thể là vào chủ trương, đường lối của đảng chính trị, truyền thống và những giá trị của đảng chính trị cũng như uy tín của lãnh tụ đảng đó. Niềm tin đó từ phía quần chúng nhân dân được hình thành qua đời sống chính trị của đất nước, qua hoạt động thực tiễn của chính đảng trong nỗ lực để bảo đảm rằng niềm tin đó sẽ được đền đáp. Vì thế, niềm tin chính trị được hình thành phải trải qua sự thử thách lâu dài, mà những kết quả thực tế trong hoạt động chính trị sẽ là sự bảo đảm cho uy tín chính trị của đảng, để khẳng định rằng niềm tin chính trị của quần chúng nhân dân dành cho đảng có vững chắc hay không.
Những yếu tố cơ bản của niềm tin chính trị của nhân dân gồm có:
Thứ nhất, sự hiểu biết về chính trị của quần chúng nhân dân ngày càng tăng lên. Đây là điều kiện cần. Điều này chính là sự giải thích cho quyết định của quần chúng nhân dân rằng, nên đi theo đảng chính trị nào và chủ trương, đường lối của đảng đó có lợi hay không có lợi cho mình. Chính trị là một vấn đề phức tạp, có thể tương đối xa lạ với đa số quần chúng nhân dân, bởi vậy họ chỉ nhận biết về chính trị từ những điều giản dị, gần gũi với cuộc sống hằng ngày của mình, qua những cá nhân mà mình biết.
Tuy nhiên, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin khẳng định rằng, cách mạng là ngày hội của những người bị áp bức, lực lượng chính của cuộc cách mạng vô sản chính là đông đảo quần chúng nhân dân bị áp bức, vì thế đảng cộng sản phải trang bị cho họ những hiểu biết nhất định về chính trị nói chung, về chủ trương, chính sách của mình nói riêng, để từ đó bước đầu hình thành niềm tin chính trị của nhân dân, tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn; từ sức mạnh tinh thần đó mà biến thành sức mạnh vật chất - các phong trào hành động chính trị dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Điều này được V.I. Lê-nin nhấn mạnh: “Nhiệm vụ thứ nhất của bất cứ một chính đảng nào có trọng trách đối với tương lai là thuyết phục cho đa số nhân dân thấy được sự đúng đắn của cương lĩnh và sách lược của mình”(2).
Thứ hai, những kinh nghiệm chính trị của nhân dân trong thực tiễn cách mạng ngày càng trở nên phong phú. Đây là điều kiện đủ. Khi sự hiểu biết về chính trị của quần chúng nhân dân là điều kiện cần của niềm tin chính trị, thì kinh nghiệm chính trị của họ chính là điều kiện đủ, quyết định họ sẽ kiên định đi theo sự lãnh đạo của đảng; đồng thời, thể hiện đảng đã thành công trong việc cuốn hút họ theo đường lối của mình. Những trải nghiệm chính trị, những bài học kinh nghiệm “xương máu” được quần chúng nhân dân đúc rút từ thực tiễn cách mạng dưới sự lãnh đạo của đảng khiến cho nhận thức chính trị của họ càng thêm sâu sắc, từ đó niềm tin chính trị vào chính đảng càng thêm sâu nặng. Lúc này, niềm tin chính trị không chỉ là kết quả từ nỗ lực của đảng chính trị, mà còn có sự đóng góp to lớn của quần chúng nhân dân, khi họ tham gia một cách tích cực, tự giác vào phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản với lý tưởng chính trị rõ ràng. Điều này được V.I. Lê-nin chỉ rõ, qua thực tiễn cách mạng vô sản Nga: “Khi đụng đến một phong trào bao gồm hàng triệu quần chúng nhân dân, thì chỉ những lời nói thôi không đủ; quần chúng nhân dân phải có kinh nghiệm của bản thân họ để họ tự kiểm nghiệm những chỉ thị và tin vào kinh nghiệm của bản thân”(3).
Qua thực tiễn cách mạng dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, sự hiểu biết chính trị của quần chúng nhân dân được nâng lên; đồng thời, kinh nghiệm chính trị của họ cũng dần được tích lũy, thông qua việc tham dự tích cực, kiên quyết vào các phong trào rộng lớn trên các lĩnh vực của sự nghiệp cách mạng. Qua đó, quần chúng nhân dân hiểu được vị trí, vai trò, sức mạnh của mình trong cuộc cách mạng theo lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin và thu được những kinh nghiệm thực tế để từng bước trưởng thành dần dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản.
Thứ ba, thực tiễn lãnh đạo chính trị thuyết phục của đảng cộng sản. Đây là điều kiện quyết định, thể hiện năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng, thông qua tính đúng đắn của các chủ trương, đường lối lãnh đạo cách mạng của đảng đem lại những thành công nhất định trên các lĩnh vực, qua đó thu hút càng nhiều quần chúng nhân dân đi theo đảng. Bên cạnh đó, những hy sinh, phấn đấu vì độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân của đội ngũ đảng viên và lãnh tụ của đảng; sự hòa quyện bởi nhân cách cá nhân người đảng viên với uy tín chính trị của đảng đã thực sự thuyết phục và củng cố niềm tin chính trị của nhân dân với đảng.
Điều này rất quan trọng từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, thể hiện qua sự đúc kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong câu nói: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Chính những hy sinh, phấn đấu của đội ngũ đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam đã góp phần quan trọng nâng cao uy tín chính trị của Đảng trong nhân dân. Điều đó làm nên những thành tựu to lớn của sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Thứ tư, sự tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân vào sự nghiệp cách mạng. Đây là điều kiện bảo đảm cho tính bền vững của niềm tin chính trị của nhân dân. Niềm tin chính trị của nhân dân được hình thành bởi quá trình hoạt động có chủ đích của Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là vì hạnh phúc của nhân dân; nhưng đồng thời, nhân dân cũng tích cực tham gia vào quá trình đó để theo đuổi lý tưởng của mình, hiện thực hóa lý tưởng đó, nên chính nhân dân đã góp phần xây dựng niềm tin chính trị của mình, bao hàm những mong muốn, yêu cầu thông qua thực tiễn chính trị đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Điều đó thể hiện rõ bản chất cuộc cách mạng vô sản, với Đảng là người tổ chức, lãnh đạo nhân dân; nhân dân là người trực tiếp xây dựng xã hội của mình, cho mình. Do đó, niềm tin chính trị là kết quả của sự cộng hưởng nỗ lực từ Đảng và quần chúng nhân dân cùng chung mục tiêu xây dựng và hiện thực hóa niềm tin chính trị về một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa phồn vinh, hạnh phúc và luôn giữ gìn và phát triển niềm tin đó qua mọi giai đoạn cách mạng.
Quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng ta cho thấy, cơ chế hình thành niềm tin của nhân dân với Đảng là việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin thông qua năng lực lãnh đạo của Đảng, với việc phát huy tính chủ động, tích cực chính trị của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Những yếu tố bảo đảm tính bền vững của niềm tin chính trị của nhân dân với Đảng
|
Cán bộ, chiến sĩ Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Nghệ An giúp nhân dân xã Nậm Giải, huyện Quế Phong thu hoạch lúa_Nguồn: laodong.vn |
Một là, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định bảo đảm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đảng Cộng sản Việt Nam không có lợi ích nào khác ngoài việc phấn đấu cho cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định rõ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ. Để hiện thực hóa điều đó, các kỳ Đại hội Đảng đồng thời đưa ra các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể ở từng lĩnh vực, để nỗ lực thực hiện. Đại hội XIII của Đảng xác định mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức rõ vị trí, vai trò của mình trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc và sự kỳ vọng của nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nỗ lực phấn đấu để xứng đáng với niềm tin đó trong mọi giai đoạn cách mạng. Đánh giá về vai trò lãnh đạo của Đảng với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, nhất là từ khi nước ta tiến hành đổi mới năm 1986, Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới”; và dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, “chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(4).
Hai là, nhân dân tham gia tích cực, nhiệt tình vào các phong trào xây dựng và phát triển đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nhân dân có vai trò vô cùng quan trọng trong thực hiện các phong trào thi đua yêu nước của tiến trình đổi mới hiện nay. Điều này đã được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Đằng sau những gương điển hình tiên tiến, đằng sau những việc làm tốt là những tấm lòng yêu nước, yêu chế độ, trọng nghĩa tình, tương thân tương ái với đồng bào, đồng chí và đồng đội; là quyết tâm làm giàu cho mình và cho quê hương, đất nước”(5).
Tính tích cực chính trị của nhân dân trong các phong trào xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thể hiện ở sự tham gia ngay từ những khâu đầu tiên, từ việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ của phong trào cho đến huy động lực lượng cũng như trực tiếp thực hiện. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ điều này: “Bên cạnh việc xác định chủ trương, đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân. Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối của Đảng vì thấy đường lối đó đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình. Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển”(6).
Trong đường lối lãnh đạo và phương pháp chỉ đạo thực tiễn của Đảng, vấn đề này đã được đúc kết lại bằng phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” tại Đại hội VIII, đến Đại hội XIII của Đảng, phương châm này được bổ sung hoàn chỉnh hơn, thành “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả phương châm này trong thực tế chính là sự bảo đảm về lâu dài tính tích cực chính trị của nhân dân trong việc tham gia các phong trào xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Ba là, nhân dân được thụ hưởng trên thực tế những thành quả của sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nhân dân đi theo Đảng, hưởng ứng phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng trước hết vì những mục tiêu rất thực tế, để đáp ứng những nhu cầu thiết thân hằng ngày, mong ước cuộc sống ngày càng tốt hơn, cả về vật chất và tinh thần. Việc những mong muốn hợp lý, chính đáng và hợp pháp của các tầng lớp nhân dân được từng bước đáp ứng, sẽ là yếu tố quyết định tới việc củng cố và giữ vững niềm tin chính trị của nhân dân với Đảng.
Sau hơn 35 năm tiến hành đổi mới, sự nghiệp cách mạng của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành được những kết quả nổi bật, qua đó nhân dân thụ hưởng ngày càng nhiều hơn các giá trị về mọi mặt của cuộc sống, từ đó góp phần giữ vững niềm tin chính trị của nhân dân với Đảng. “Việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố”(7). Với những kết quả đó, “Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển”(8).
Ở mức độ cao hơn, sự trưởng thành về niềm tin chính trị sẽ dẫn đến những yêu cầu, mong đợi cao hơn nữa của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng. Người dân yêu cầu và kỳ vọng Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng thành công một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người dân được hưởng một cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội luôn là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam, là ước vọng cao nhất và là đỉnh cao về niềm tin chính trị của nhân dân với Đảng. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”(9). Để đạt được mục tiêu này, thực tiễn đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao hơn, đòi hỏi sự quyết tâm, phấn đấu không ngừng của toàn Đảng và toàn dân tộc, để biến mục tiêu thành hiện thực, để dân tộc ta ngày càng cường thịnh, nhân dân ta ngày càng hạnh phúc, đất nước ta ngày càng phồn vinh, qua đó niềm tin chính trị của nhân dân đối với Đảng ngày càng được củng cố vững chắc.
Quyết tâm giữ vững và phát huy niềm tin chính trị của nhân dân theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng
Thứ nhất, tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, đại biểu trung thành cho lợi ích của toàn thể dân tộc.
Đây là nhiệm vụ quan trọng để giữ vững và phát huy niềm tin chính trị của nhân dân với Đảng. Đảng là tổ chức đại diện và bảo vệ cho quyền lợi của toàn thể nhân dân, vì thế tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh là điều kiện để thực hiện nhiệm vụ quan trọng đó. Muốn vậy, Đảng phải đề ra được đường lối, chủ trương đúng đắn, đồng thời lãnh đạo hiệu quả việc thực hiện có kết quả đường lối, chủ trương đó trong thực tiễn cách mạng.
Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận được Đảng ta coi trọng và đẩy mạnh, góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, giúp nâng cao chất lượng việc xây dựng các nghị quyết, quy định…, để cấp ủy các cấp sớm đưa chủ trương của Đảng vào cuộc sống, thực hiện thành công nhiệm vụ chính trị ở mỗi địa phương, ngành, lĩnh vực. “Các cấp ủy, tổ chức đảng đã kịp thời cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành các nghị quyết, chỉ thị, đề án, kế hoạch, chương trình hành động sát với tình hình thực tế của địa phương, cơ quan, đơn vị. Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng đã ban hành các nghị quyết chuyên đề để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm, khâu đột phá; khắc phục điểm yếu, giải quyết kịp thời những vấn đề phức tạp của địa phương, cơ quan, đơn vị”(10). Những nỗ lực đó của cấp ủy các cấp thể hiện ở kết quả của việc thực hiện nhiệm vụ chính trị qua mỗi nhiệm kỳ đại hội đảng bộ mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị; qua đó, góp phần vào thành công chung của sự nghiệp đổi mới, nâng cao toàn diện đời sống của các tầng lớp nhân dân.
Công tác xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ đều đạt được những kết quả quan trọng. Đặc biệt, thời gian qua, “công tác xây dựng Đảng về đạo đức được Trung ương và các cấp ủy, tổ chức đảng đề cao, nhận thức và hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý có chuyển biến tích cực”; “việc thực hiện trách nhiệm nêu gương và chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên có chuyển biến tích cực, nhất là vai trò tiền phong, gương mẫu của các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ, đảng viên đã đề cao tinh thần trách nhiệm, giữ gìn phẩm chất, đạo đức, lối sống; gương mẫu đi đầu, tận tụy với công việc, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Việc xử lý kỷ luật nghiêm những đảng viên vi phạm, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, cả cán bộ đương chức và nghỉ hưu đã giúp mỗi cán bộ, đảng viên tự soi, tự sửa, tự điều chỉnh hành vi, tích cực rèn luyện đạo đức, lối sống, tác phong công tác”(11); qua đó, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của cấp ủy các cấp, nâng cao đạo đức đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm trong sạch và vững mạnh tổ chức, góp phần nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Để tiếp tục phát huy những thành quả đạt được, thời gian tới, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, đại biểu trung thành cho lợi ích của toàn thể dân tộc đã được Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước… Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên;…Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Xây dựng, hoàn thiện chính sách phát hiện, thu hút, sử dụng nhân tài; có cơ chế bảo vệ những cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung, đồng thời xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng và kiểm soát chặt chẽ quyền lực. Đẩy mạnh đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí”(12).
Thứ hai, tiếp tục phát huy hơn nữa tinh thần tự giác, lòng nhiệt tình cách mạng của nhân dân.
Để phát huy hơn nữa vai trò chủ động, tích cực của các tầng lớp nhân dân trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, cần hiện thực hóa mục tiêu dân được thụ hưởng trong phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” của Đại hội XIII của Đảng.
“Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội”(13). Bên cạnh đó, cần “giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tốt đẹp của người Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”(14).
Thứ ba, thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng.
Chỉ khi giữ vững được mối quan hệ mật thiết với nhân dân, Đảng ta mới có thể tiến hành thành công sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Mỗi tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên khi thực hiện nhiệm vụ cần khắc sâu điều đó trong mỗi quyết sách chính trị của mình. Lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng, thước đo để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên.
Thời gian qua, với sự nỗ lực của các cấp ủy và tổ chức đảng các cấp, “công tác dân vận được chú trọng và tiếp tục đổi mới; quan điểm “dân là gốc”, là chủ thể của công cuộc đổi mới được nhận thức và thực hiện ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn; mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được củng cố, tăng cường”(15).
Để thắt chặt hơn nữa mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, Đại hội XIII của Đảng chỉ ra nhiệm vụ thời gian tới của các tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên là: “Tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ thật sự “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”… Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận của các cơ quan đảng, nhà nước và chính quyền các cấp… phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh trong tình hình mới”(16).
Muốn hoàn thành tốt mục tiêu, nhiệm vụ nói trên, mỗi cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên cần nâng cao năng lực lãnh đạo, giữ vững tư cách, phẩm chất người đảng viên cộng sản; lãnh đạo các đoàn thể nhân dân hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị; thực hành dân chủ rộng rãi và thực chất, đi đôi với tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương, thượng tôn pháp luật; tổ chức tốt các phong trào hành động cách mạng có sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân; khơi dậy lòng nhiệt tình và chủ động của nhân dân tham gia, hưởng ứng tích cực các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc… Qua những hoạt động đó, Đảng phát huy vai trò lãnh đạo nhân dân thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị; dựa vào nhân dân để xây dựng và chỉnh đốn Đảng, hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh./.
---------------------------
(1) “Phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bế mạc Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII”, in trong: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2017, tr. 250 - 251
(2) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 36, tr. 208
(3) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 39, tr. 41
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021,t. I, tr. 26, 25
(5) Nguyễn Phú Trọng: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 10-6-2017, http://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chi-tiet-tim-kiem/-/2018/45333/%22mot-tam-guong-song-con-co-gia-tri-hon-mot-tram-bai-dien-van-tuyen-truyen%22.aspx
(6),(7),(8)Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản số 966, tháng 5-2021, tr. 14, 12, 12
(9)Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 110
(10)Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 167
(11)Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 173, 174 - 175
(12)Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 229-230
(13)Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 118
(14)Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 136 - 137
(15)Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 201-202
(16)Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 248
Theo Tạp chí Cộng sản