|
Ban Chỉ đạo Trung ương thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở tổ chức Hội nghị sơ kết công tác 6 tháng đầu năm, triển khai nhiệm vụ công tác 6 tháng cuối năm 2023. |
Cơ sở chính trị - pháp lý về dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dân chủ xã hội chủ nghĩa
Theo sách Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội X của Đảng thì:
“Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một hình thức thể hiện quyền tự do, bình đẳng của công dân, xác định nhân dân là chủ thể của quyền lực. Chế độ dân chủ bắt nguồn từ chính bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân là điều kiện cơ bản để thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới, phát triển đất nước.
Sự sáng tạo của nhân dân, quyền lực của Nhân dân và sự bình đẳng, tự do cá nhân là cơ sở lý luận và thực tiễn của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trên quan điểm quyền lực nhân dân dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, đặt ra nhiệm vụ phấn đấu để mọi thành viên trong xã hội đều tham gia vào việc hoạch định chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Chế độ xã hội chủ nghĩa tạo nên những hình thức dân chủ hoàn toàn mới, phù hợp với điều kiện kinh tế của xã hội, làm cho nền dân chủ đó ngày càng phong phú, đa dạng. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, bên cạnh nền dân chủ có tính chất dân cử, những hình thức dân chủ trực tiếp khác nhau cũng được phát triển hài hòa, thể hiện trong các hoạt động của những tổ chức xã hội, tổ chức dân lập, trong hệ thống kiểm soát của Nhân dân.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa ghi nhận toàn bộ những quyền tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, hội họp, đi lại, tự do tín ngưỡng, quyền bất khả xâm phạm thân thể và nhà ở, quyền nghỉ ngơi, học hành.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa bảo đảm cho tất cả công dân được hưởng những quyền đó. Nhà nước xã hội chủ nghĩa tạo cho công dân những khả năng rộng rãi để bày tỏ nguyện vọng và trình bày ý kiến của mình về những vấn đề của đời sống xã hội.
Việc xác lập nền dân chủ ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là phù hợp với thực tiễn của đời sống xã hội. Để có dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện một Đảng cầm quyền, cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa dân chủ ở cấp trung ương với việc thực hiện dân chủ ở cơ sở; trong đó dân chủ ở cơ sở có tính chất nền tảng, dân chủ ở cấp trung ương có tính chất quyết định.
Dân chủ ở nước ta, trước hết và chủ yếu được thực hiện bằng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do nhân dân làm chủ. Hệ thống chính trị đã động viên sự tham gia của công dân vào công việc của Nhà nước ở cơ sở, trong các hoạt động đa dạng, nhằm thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giữ gìn an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
Bài học lớn về dân chủ là phát huy tối đa nội lực và ý thức tự lực, tự cường của nhân dân; vai trò quan trọng của nhân dân trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan Đảng và Nhà nước; dân chủ đi đôi với chấp hành pháp luật, kỷ cương xã hội”1.
Dân chủ theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ có nghĩa là “dân là chủ, dân làm chủ”, “toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân”.
Người cũng khẳng định: Đã là người chủ của nước nhà thì quyền hành và lực lượng thuộc về dân. Người chỉ rõ:
“Nước ta là nước dân chủ;
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân;
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân;
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân;
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân;
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra;
Đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên;
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”2.
Người còn nói: “Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn” và “Dân chủ là của quý báu nhất của Nhân dân”.
Trong chế độ dân chủ, xét về bản chất, nhà nước là không có quyền, mà quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân ủy quyền cho nhà nước thay mặt dân điều hành và quản lý đất nước, quản lý xã hội, nhằm bảo đảm quyền lợi cho dân.
Dân chủ theo đường lối của Đảng
Cương lĩnh năm 1991 về xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với phương hướng là: “Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
Dân chủ gắn liền với công bằng xã hội phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội thông qua hoạt động của nhà nước do nhân dân cử ra và bằng các hình thức dân chủ trực tiếp. Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, phải được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật bảo đảm.
Nhà nước định ra các đạo luật nhằm xác định các quyền công dân và quyền con người, quyền đi đôi với nghĩa vụ và trách nhiệm”3.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã đề ra mục tiêu từ nay đến giữa thế kỷ XXI thực hiện tốt một trong tám phương hướng sau đây: “Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất”4.
Về vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn này, Đảng ta xác định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc; đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên; thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành mạnh; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; giáo dục đạo đức và lý tưởng cách mạng, quyền và nghĩa vụ của công dân, tăng cường mối quan hệ giữa Nhân dân với Đảng, Nhà nước.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận. Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên.
Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện, tích cực, sáng tạo và chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn thể. Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội”5.
Pháp luật Nhà nước về dân chủ
Hiến pháp năm 2013 được ban hành với nhiều điểm mới được bổ sung, sửa đổi liên quan đến quyền con người, quyền làm chủ của Nhân dân quy định tại Chương II. Ví dụ: Tại Điều 14 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.
Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của pháp luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
Từ Điều 20 đến Điều 47, quyền con người, quyền công dân được quy định cụ thể trên các lĩnh vực của đời sống, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Về thực hành dân chủ trong cơ quan nhà nước, trong Mặt trận Tổ quốc, trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội cũng được quy định cơ bản. Trên cơ sở các điều quy định của Hiến pháp, Quốc hội đã quy định thành văn bản pháp luật cụ thể để thi hành và thực hiện trong thực tiễn của đời sống xã hội, như Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân...
Tại Điều 9 Hiến pháp quy định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường sự đồng thuận xã hội; giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Sau hơn 35 năm tiến hành thực hiện công cuộc đổi mới và thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (Bổ sung, phát triển năm 2011), nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta ngày càng được bổ sung, phát triển.
Nhận thức về dân chủ trong Đảng, cơ quan Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và trong xã hội ngày càng được nâng cao; thực hành dân chủ trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đạt nhiều thành tựu, đời sống vật chất và tinh thần trong Nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao, khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường và phát huy sức mạnh, đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu trở thành nước đang phát triển.
Về thực hành dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện trong mối quan hệ với vị trí, vai trò, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội
Tư tưởng về tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc là, Mặt trận phải phát triển đa dạng các hình thức tổ chức và hoạt động để tập hợp hết thảy mọi người Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài, không phân biệt thành phần giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, quá khứ, nhằm động viên mọi nguồn lực, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây cũng là mở rộng dân chủ tập hợp mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại lâu dài các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo. Với nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội đã và sẽ thay đổi nhiều cùng với những biến đổi về kinh tế, xã hội.
Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ đoàn kết, hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhiều tổ chức xã hội nghề nghiệp ra đời. Sự phát triển của khoa học và công nghệ, sự giao lưu văn hoá không ngừng tác động đến lối sống và nếp nghĩ của mọi tầng lớp, mọi người trong xã hội.
Mặt khác, các thế lực thù địch đang thực hiện chiến lược "Diễn biến hoà bình" với nhiều âm mưu nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, hòng phá hoại sự nghiệp cách mạng của Nhân dân ta. Tình hình tham nhũng, tiêu cực là nỗi bức xúc trong Nhân dân. Do vậy, sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc có vai trò hết sức quan trọng.
Xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, không chỉ là trách nhiệm duy nhất của Mặt trận Tổ quốc, nhưng Mặt trận Tổ quốc có vai trò quan trọng tập hợp, xây dựng, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kêt toàn dân tộc, vận động Nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vì mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thấm nhuần quan điểm về đại đoàn kết toàn dân tộc, Mặt trận Tổ quốc cần nắm vững vai trò của mình trong việc tập hợp, xây dựng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Mặt trận Tổ quốc có nhiều phương thức để tập hợp Nhân dân về tổ chức, như: kết nạp các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp làm thành viên của Mặt trận; đoàn kết, ủng hộ hoạt động của các tổ chức, tham gia các hoạt động của Mặt trận Tổ quốc nhưng chưa tham gia vào tổ chức của Mặt trận; phát huy tính tích cực của những cá nhân tiêu biểu trong xã hội để thực hiện chương trình của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và thông qua các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước và hoạt động khác của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để tập hợp các tổ chức và cá nhân người Việt Nam ở trong và ngoài nước.
Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Mặt trận Tổ quốc đã tiến hành đổi mới phương thức, nội dung hoạt động, đã tập hợp được đông đảo các tổ chức, cá nhân gia nhập Mặt trận Tổ quốc.
Đại hội Mặt trận nhiệm kỳ V năm 1999 ở Trung ương mới có 21 tổ chức thành viên, đến nay, cuối nhiệm kỳ Đại hội IX đã có 47 tổ chức thành viên, cùng với cá nhân tiêu biểu hợp thành một tổ chức liên minh chính trị rộng lớn từ Trung ương đến cơ sở, địa bàn dân cư, có vai trò quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc thực hiện dân chủ và đổi mới xã hội.
Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân ta đã đánh bại thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ, giành độc lập, thống nhất đất nước; xây dựng và phát triển đất nước thoát khỏi đói nghèo, tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Ngày nay, phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới.
Thực hiện dân chủ trong việc đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân
Vai trò và nhiệm vụ đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, vừa là quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mới được quy định trong Hiến pháp 2013 và được thể chế hóa trong Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 2015. Đây là chủ trương, chính sách, pháp luật mới, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa về vai trò và nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Nội hàm của vai trò và nhiệm vụ này bao gồm:
- Mặt trận Tổ quốc có trách nhiệm tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và Nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Quốc hội, Hội đồng nhân dân trong các kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân; Mặt trận Tổ quốc phối hợp với chính quyền tổ chức các cuộc họp cử tri để tiếp xúc với đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.
Thông qua các cuộc họp này, cử tri nắm được hoạt động của Quốc hội, những chính sách, pháp luật được Quốc hội thông qua và ban hành trong đời sống xã hội, đồng thời cũng là hoạt động để Nhân dân giám sát hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, giám sát hoạt động của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Mặt trận Tổ quốc tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện quyền làm chủ, thực hiện chính sách, pháp luật; Mặt trận phối hợp với chính quyền cấp xã, tổ chức vận động Nhân dân thực hiện dân chủ ở cơ sở, xã, phường, thị trấn, xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước ở địa bàn dân cư.
Mặt trận Tổ quốc ở xã, phường, thị trấn chỉ đạo hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân và Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng, tham gia công tác hòa giải ở cơ sở; tiếp công dân, tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo, đặc xá.
Những hoạt động trên, thể hiện vai trò đại diện cho Nhân dân tham gia với cơ quan Nhà nước có liên quan để thực hiện các quy định của pháp luật về quyền dân chủ trực tiếp của Nhân dân và quyền dân chủ của Nhân dân thông qua đại diện là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Trước khi có Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 2015, pháp luật chỉ quy định Mặt trận cùng Nhà nước chăm lo bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, nên việc thực hiện chức năng đại diện là chưa có, do vậy các hoạt động chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhân dân còn ở chừng mực nhất định. Từ sau khi Luật Mặt trận Tổ quốc 2015 được ban hành, chức năng đại diện quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân được thực hiện.
Tuy nhiên, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 2015 quy định các quyền đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân còn mang tính chất khung, chưa có đầy đủ cơ chế, chính sách cụ thể để Mặt trận Tổ quốc thực hiện trên thực tế.
Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện dân chủ và đổi mới, với cơ chế đại diện là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đồng thời trước những yêu cầu, kiến nghị của cử tri và Nhân dân, đòi hỏi Mặt trận Tổ quốc phải nâng cao vai trò của mình trong việc đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, coi đây là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, với tư cách là chủ thể thực hiện, chứ không chỉ là tham gia thực hiện như trước đây.
Thực hiện dân chủ, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước
Dân chủ ở nước ta, trước hết và chủ yếu được thực hiện bằng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Nhân dân làm chủ. Trên quan điểm quyền lực Nhân dân dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, đặt ra nhiệm vụ phấn đấu để mọi thành viên trong xã hội đều tham gia vào việc hoạch định chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước theo chủ trương, đường lối của Đảng trong giai đoạn hiện nay thực chất là mở rộng dân chủ theo hướng từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện dân chủ tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước là quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được Bộ Chính trị ban hành cơ chế thông qua Quyết định 218 về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và Nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, cùng với nhiều nhiệm vụ được quy định trong Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các luật khác.
Từ thực tiễn hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trên lĩnh vực này, việc thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trong việc phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước cần tập trung thực hiện tốt những hoạt động sau đây:
Về tham gia xây dựng Đảng
Xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức để đảm đương vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Xây dựng Đảng không chỉ là nhiệm vụ của Đảng và đảng viên, mà còn là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của Nhân dân, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Nước ta là nước dân chủ, việc mở rộng phạm vi tham gia xây dựng Đảng như trên là thể hiện quan điểm Nhân dân là chủ thể quyền lực Nhà nước. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc tham gia xây dựng Đảng thực chất là phát huy quyền làm chủ của Nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Quan hệ giữa Đảng và Nhân dân như “cá với nước”. Mặt trận Tổ quốc là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân.
Mặt trận tham gia xây dựng Đảng, trước hết và quan trọng là tham gia xây dựng chủ trương, đường lối của Đảng có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp chính, đáng của Nhân dân, liên quan đến vai trò, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội.
Phạm vi góp ý bao gồm: Góp ý kiến vào dự thảo báo cáo chính trị của cấp ủy, tổ chức Đảng trước mỗi kỳ đại hội; góp ý việc thực hiện các quy định Đảng, mối quan hệ giữa cấp ủy, tổ chức Đảng và đảng viên với Nhân dân; góp ý với đảng viên trong việc thực hiện các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; góp ý về phẩm chất, đạo đức, lối sống và vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là những người đứng đầu cấp ủy, tổ chức Đảng, cán bộ chủ chốt, cán bộ, đảng viên.
Trước đây, khi chưa có Quy định 218 của Bộ Chính trị, trong vai trò tham gia xây dựng Đảng, Mặt trận mới chỉ làm được một số việc theo yêu cầu của cấp ủy, tổ chức Đảng như: Góp ý dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội Đảng các cấp; góp ý dự thảo các Văn kiện hội nghị Trung ương về chủ trương, chính sách đối với các giai cấp, đội ngũ trí thức, về dân tộc, tôn giáo, liên quan đến vai trò của thanh niên, phụ nữ...
Công tác Mặt trận tham gia xây dựng Đảng, ngoài những nội dung nêu trên, còn tham gia thực hiện giám sát cán bộ, đảng viên ở khu dân cư, và gần đây, Trung ương còn quy định “Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên” (Quyết định 124/ QĐ-TƯ ngày 2/2/2018).
Về tham gia xây dựng Nhà nước
Thể chế Cương lĩnh chính trị của Đảng năm 2011, Nhà nước ban hành Hiến pháp năm 2013, đến năm 2015, ban hành Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong đó quy định nhiệm vụ Mặt trận Tổ quốc tham gia xây dựng và củng cố chính quyền bao gồm: Tham gia xây dựng bộ máy nhà nước, tham gia xây dựng pháp luật; tham gia tố tụng, tuyển chọn thẩm phán, kiểm sát viên, giới thiệu người để Hội đồng nhân dân bầu làm Hội thẩm nhân dân.
Để hình thành bộ máy nhà nước, bao gồm cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp, trước hết phải tổ chức bầu cử để Nhân dân bầu ra các đại biểu đại diện cho Nhân dân lập nên bộ máy các cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở.
Với nhiệm vụ trong bầu cử đại biểu dân cử, Mặt trận Tổ quốc có vai trò quan trọng tổ chức hiệp thương, lựa chọn giới thiệu người ra ứng cử. Công tác hiệp thương dân chủ vừa là thực hiện dân chủ đại diện là Mặt trận Tổ quốc, vừa là thực hiện dân chủ trực tiếp của cử tri để thực hiện 5 bước của công tác hiệp thương dân chủ, lựa chọn giới thiệu người ra ứng cử.
Thực hành dân chủ trong bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, việc đầu tiên là Mặt trận hiệp thương dân chủ với các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc để thỏa thuận phân bổ cơ cấu thành phần, số lượng người của các cơ quan, tổ chức, đơn vị ở Trung ương, ở địa phương ra ứng cử.
Thứ hai là, sau khi có danh sách sơ bộ những người ứng cử của các cơ quan, tổ chức, đơn vị gửi đến Mặt trận Tổ quốc, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức hội nghị hiệp thương dân chủ lần thứ hai để lập danh sách sơ bộ, sau đó gửi xuống địa bàn dân cư nơi người ứng cử cư trú, để lấy ý kiến nhận xét và tín nhiệm của cử tri.
Thứ ba là, căn cứ ý kiến nhận xét và tín nhiệm của cử tri nơi công tác, nơi làm việc và của cử tri nơi cư trú, Mặt trận Tổ quốc tổ chức hội nghị hiệp thương lần thứ ba để xem xét, lựa chọn lập danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.
Như vậy, qua 3 hội nghị hiệp thương dân chủ với các tổ chức thành viên trong Mặt trận Tổ quốc và 2 lần trực tiếp lấy ý kiến nhận xét và biểu thị sự tín nhiệm của cử tri, Mặt trận Tổ quốc mới lập danh sách chính thức những người ứng cử. Đây là sự kết hợp dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trong công tác lựa chọn nhân sự để Mặt trận Tổ quốc giới thiệu người ra ứng cử.
Sau khi công bố danh sách những người ứng cử, Mặt trận Tổ quốc còn phối hợp với chính quyền cùng cấp ở địa phương tổ chức hội nghị cử tri để những người ứng cử tiếp xúc với cử tri, thực hiện quyền vận động bầu cử cho mình, đồng thời để cử tri nắm được chất lượng người ứng cử, lựa chọn trong ngày bầu cử.
Công tác bầu cử là điển hình cho việc mở rộng và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa dưới chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, mà Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là chủ thể đại diện cho Nhân dân và cùng với Nhân dân trực tiếp tham gia xây dựng bộ máy các cơ quan nhà nước và chính quyền của mình.
Cùng với công tác Mặt trận tham gia tuyển chọn thẩm phán, kiểm sát viên, giới thiệu người để Hội đồng nhân dân bầu làm Hội thẩm nhân dân; công tác Mặt trận tham gia xây dựng pháp luật được Hiến pháp, pháp luật quy định là thể chế dân chủ đặc sắc ở nước ta; thể hiện quyền làm chủ của Nhân dân, vai trò, nhiệm vụ của Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng Nhà nước.
Thực tiễn thực hiện các nhiệm vụ tham gia xây dựng Nhà nước với những công việc nêu trên, còn những hạn chế liên quan đến phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết do Mặt trận chủ trì đó là, sự phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên trong Mặt trận Tổ quốc, nhất là trong công tác bầu cử, công tác tham gia xây dựng chính sách pháp luật. Trong 2 nhiệm vụ này rất cần có sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị - xã hội và sự chủ động phối hợp của Mặt trận Tổ quốc với những phương thức thích hợp trong quá trình thực hiện, thì hiệu quả còn cao hơn trong thực tế hành động.
Trong công tác xây dựng pháp luật, đại diện của các tổ chức thành viên hầu như chưa có đại diện trong các Hội đồng tư vấn của Mặt trận Tổ quốc để có tiếng nói đầy đủ của các tầng lớp xã hội tham gia xây dựng pháp luật.
Về việc góp ý xây dựng chính quyền theo Quyết định 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị, để phát huy dân chủ và sức mạnh khối đại đoàn kết do Mặt trận chủ trì trong giai đoạn hiện nay, Mặt trận Tổ quốc cần triển khai và thực hiện tốt việc tham gia tổ chức đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu chính quyền các cấp với Nhân dân hàng năm.
Mặt trận Tổ quốc các cấp thực hiện tốt việc góp ý hàng năm với chính quyền, cơ quan, tổ chức cùng cấp trong việc thực hiện 4 nội dung quy định tại Điều 11 Quyết định 218, trong đó đi sâu góp ý với cơ quan, chính quyền trong việc thực hiện cải cách hành chính, phòng chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực khác; việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về dân chủ ở cơ sở, công tác tiếp dân, giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân; việc thực hiện pháp luật về đất đai, môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm...
Việc mở rộng dân chủ trong thực hành dân chủ theo Nghị quyết 218 về đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, thực chất là để những người đứng đầu cấp ủy Đảng, người đứng đầu chính quyền phải dựa vào dân, gần dân hơn, lắng nghe ý kiến người dân về tâm tư nguyện vọng, đề đạt kiến nghị với Đảng, chính quyền giải quyết những vấn đề Nhân dân quan tâm, bức xúc về chính sách, pháp luật, về sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước, về tham nhũng, tiêu cực, lãng phí đang xảy ra trong xã hội.
Thực hiện chủ trương đối thoại giữa người đứng đầu cấp ủy, chính quyền đang được cấp ủy, chính quyền phối hợp với Mặt trận Tổ quốc triển khai trong hệ thống chính trị các cấp ở địa phương, đã tác động tích cực đến vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền địa phương, phát huy tính tích cực vai trò Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước.
Thực hiện dân chủ trong giám sát và phản biện xã hội
Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thực hiện theo các quy định của Hiến pháp 1992, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 1999, đến Luật Mặt trận Tổ Việt Nam 2015 các cơ chế, chính sách để thực hiện giám sát đã được pháp luật quy định khá đầy đủ. Trên thực tế, quyền giám sát của Mặt trận Tổ quốc đã và đang đi vào đời sống xã hội, đang tiếp cận vào những lĩnh vực trọng tâm, bức xúc trong từng thời gian, trên phạm vi toàn quốc cũng như ở từng địa phương, cơ sở.
Hoạt động giám sát đã bám sát yêu cầu của nhiệm vụ chính trị và những đòi hỏi, bức xúc trong Nhân dân ngày càng thiết thực và hiệu quả, được Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo, tạo điều kiện, được xã hội theo dõi, động viên và Nhân dân đồng tình, hưởng ứng theo công tác vận động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Tuy nhiên, do nhận thức trong Nhân dân, cán bộ, đảng viên chưa đầy đủ và sâu sắc về chủ trương, chính sách, pháp luật về giám sát, về hiệu quả giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; do cơ chế, chính sách có những vấn đề chưa quy định cụ thể và đầy đủ; do kiến thức, năng lực và tổ chức thực hiện còn hạn chế của cán bộ Mặt trận, đoàn thể và do các điều kiện bảo đảm để thực hiện còn những bất cập.
Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động giám sát phải tiếp tục đẩy mạnh, tập trung giám sát vào những ngành, lĩnh vực liên quan nhiều đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, đến vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam như: đất đai, tài nguyên và môi trường, đầu tư công, chăm sóc sức khỏe nhân dân, giáo dục và đào tạo, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân...
Phát huy vai trò giám sát của Nhân dân thông qua hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng. Thông qua 2 hình thức tổ chức của Nhân dân ở địa bàn thôn, làng ấp, bản, Nhân dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, giám sát thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, giám sát công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của chính quyền cơ sở và cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên.
Hoạt động phản biện xã hội là một bước mở rộng dân chủ theo chủ trương của Đảng từ Đại lần thứ X, đến nay đã được Nhà nước thể chế hóa trong Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 2015, Nghị quyết liên tịch 403 giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội - Chính phủ và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn các hình thức giám sát và phản biện xã hội và các văn bản hướng dẫn của Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
Vai trò, nhiệm vụ của Mặt trận đối với việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) theo Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị đã chỉ rõ 3 vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đó là:
Một, tuyên truyền rộng rãi trong Nhân dân về chủ trương của Đảng về thực hiện dân chủ ở cấp xã để Nhân dân nhận thức đầy đủ quyền và trách nhiệm công dân trong thực hiện dân chủ ở địa phương. Hai, cùng với chính quyền tổ chức để người dân thực hiện quyền dân chủ theo các khâu được quy định của pháp luật. Ba, thực hiện quyền giám sát việc thực hiện dân chủ ở cấp xã.
Nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong mỗi vai trò được quy định cụ thể trong Pháp lệnh số 34 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nay là Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Ở mỗi khâu thực hiện dân chủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với chính quyền cùng cấp tổ chức để Nhân dân thực hiện; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã phối hợp với chính quyền xây dựng Quy chế dân chủ ở cấp xã và các Quy chế dân chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội ở cơ sở, thôn, bản, tổ dân phố, đồng thời Mặt trận Tổ quốc thực hiện giám sát việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, địa bàn dân cư.
Thực hiện dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp trong việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn là một trong những nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của cả hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong đó Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã đóng vai trò chủ chốt.
Thực hiện dân chủ ở cấp xã tốt hay không, phần rất quan trọng là ở vai trò và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và Ban Công tác Mặt trận ở khu dân cư. Phát huy dân chủ ở cơ sở là một khâu trọng yếu nhằm động viên sức mạnh của các tầng lớp nhân dân vượt qua khó khăn, thách thức để thực hiện các nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn hiện nay.
Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Tìm hiểu Một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội X của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 212.
2. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 5, tr. 698.
3. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 321.
4,5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 72, 86, 87.
Đỗ Duy Thường - Ủy viên Đoàn Chủ tịch,
nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam