Tin mới

Tổng kết các phương pháp tiếp cận để tiếp tục phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam*

(Mặt trận) - Trong tiến trình tìm tòi, bổ sung, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua hơn 35 năm đổi mới, Đảng ta đã có những đột phá và sáng tạo lý luận nổi bật, góp phần đưa nước ta đạt được những thành tựu, to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Để có được những sáng tạo lý luận ấy, nhiều phương pháp tiếp cận đã được áp dụng và rất cần được tổng kết kỹ lưỡng, nhằm đáp ứng yêu cầu tiếp tục phát triển, nâng tầm lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, hướng tới 40 năm đổi mới.

Chỉ thị của Ban Bí thư về việc tổ chức Tết Ất Tỵ năm 2025

Trưởng Ban Tổ chức Trung ương: Tinh gọn là phải rất gọn, chức năng và nhiệm vụ phải rõ ràng

Dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng theo tinh thần Đại hội XIII - Những vấn đề lý luận và thực tiễn

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới _Ảnh: Tư liệu  

Vai trò của tổng kết các phương pháp tiếp cận trong phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), một hệ thống tri thức và phương pháp luận từ quá trình vận dụng lý luận, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn đã được đúc kết thành hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hệ thống đó là kết quả của sự vận dụng, chuyển hóa từ lý luận CNXH khoa học của C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH ở Việt Nam; tạo thành cơ sở lý luận, nguyên lý và phương pháp để giải quyết các vấn đề thực tiễn của sự nghiệp đổi mới.

Các tổng kết lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, các công trình nghiên cứu đều thống nhất khẳng định vai trò hàng đầu của hệ thống lý luận này, coi đây là nguyên nhân cơ bản của những thành tựu “to lớn, có ý nghĩa lịch sử” của quá trình đổi mới đất nước, làm cho nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Theo đó, việc tổng kết thực tiễn nghiên cứu và phát triển lý luận thời kỳ đổi mới cũng là một hướng đi quan trọng để khẳng định tầm vóc, giá trị cùng những vấn đề đặt ra cần giải quyết một cách thấu đáo, toàn diện và khoa học nhằm phát triển lý luận về CNXH ở Việt Nam trong bối cảnh mới. 

Trong các hướng, lĩnh vực tổng kết lý luận về CNXH thời kỳ đổi mới, rất cần có sự tổng kết về phương pháp nghiên cứu, phương pháp tiếp cận. Lĩnh vực này tuy là “công cụ” nghiên cứu, nhưng lại có vai trò quan trọng, vì cũng như trong sản xuất công cụ là yếu tố quyết định năng suất, hiệu quả thì quá trình tổng kết này còn có thể mở ra những hướng nghiên cứu mới và trực tiếp góp phần đổi mới tư duy.

Trên thực tế, tổng kết lý luận về thời kỳ đổi mới nói chung hay về một lĩnh vực là CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam nói riêng, đã được triển khai ở nhiều cấp độ, lĩnh vực chuyên ngành...; theo đó, chủ thể tổng kết có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Ở đây, phương pháp duy vật lịch sử vẫn là nền tảng cơ bản, nhưng khi các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành tiếp hợp và kết hợp với phương pháp nền tảng ấy, thì cả hai cùng đều đạt tới một trình độ mới trong phát hiện và phân tích. Tổng hợp lại, chúng ta sẽ có một cái nhìn đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về quá trình phát triển lý luận, nhất là về cách thức, chủ thể, động lực, lộ trình phát triển tư duy..., để hình thành nên khoa học về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.

Tổng kết các phương pháp tiếp cận còn có vai trò quan trọng trong việc góp phần hệ thống hóa phương pháp, tư tưởng của Đảng; góp phần phát triển tư duy khoa học chính trị - xã hội, dần định hình “khoa học chính trị” mang bản sắc Việt Nam trong quá trình hoạch định đường lối, chính sách đúng đắn, phù hợp của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thêm vào đó, chính việc tiến hành tổng kết sẽ bổ sung những cách tiếp cận mới để tiếp tục giải quyết những vấn đề lý luận chưa được làm rõ, góp phần xử lý các vấn đề mới phát sinh từ thực tiễn đổi mới hiện nay. Và qua đây, từ góc độ phương pháp, việc tổng kết các cách thức tiếp cận cũng góp phần xác định “Lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam” như một khoa học. Với ý nghĩa đó, việc tổng kết phương pháp nghiên cứu không chỉ là công việc mang tính lý thuyết, hàn lâm, mà còn có vai trò, tầm quan trọng không thể xem nhẹ, nhất là trong “định hình” và “định hướng” lý luận về CNXH và thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam.

Xét về nguyên tắc, nội dung, mục đích nghiên cứu là yếu tố quyết định cho phương pháp và cách tiếp cận trong nghiên cứu, nhưng cần phải thấy rằng, một góc nhìn mới cũng có thể giúp thấu thị thêm các tầng bản chất của sự vật, hiện tượng hoặc giúp cho chủ thể có thể đưa ra được những kiến giải mới, cách thức mới trong khi giải quyết các nan đề. Với nhận thức như vậy, giới nghiên cứu nước ta đã khá mạnh dạn trong mở rộng hướng tiếp cận nghiên cứu; trong đó, có các phương pháp tiếp cận khác nhau, khá phong phú và đa dạng về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. 

Khái quát về các phương pháp tiếp cận chủ yếu và những gợi mở nhằm tiếp tục phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Những phương pháp tiếp cận chủ yếu đã được sử dụng thời gian qua 

Tiếp cận từ giác độ thực tiễn

Trước đây, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã xây dựng, vận dụng quan điểm thực tiễn, “đứng vững trên mảnh đất hiện thực”, soi chiếu nó bằng phương pháp duy vật lịch sử và làm cho CNXH chuyển biến từ không tưởng thành khoa học. Đối với Việt Nam, tiếp cận vấn đề thực tiễn chính là phải chỉ ra được những khó khăn, bất cập, ách tắc, sai lầm, khuyết điểm... mà sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam gặp phải và cần có sự dẫn đường, trợ lực của lý luận để soi rọi, giải quyết.

Muốn thấy rõ vấn đề thực tiễn và giải quyết được vấn đề thực tiễn thì trước hết phải đổi mới tư duy theo hướng “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”; từ đó, không chỉ khẳng định các thành tựu đạt được, mà còn phải dũng cảm, thẳng thắn vạch ra những sai lầm, như trong bố trí cơ cấu kinh tế, phân phối, lưu thông, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa và cả trong cơ chế quản lý nền kinh tế... Cách tiếp cận này được sử dụng rất rõ ở đầu thời kỳ đổi mới và nhờ đó, Đảng ta đã nhận thức, xác định đúng và trúng nhiều vấn đề thực tiễn nóng bỏng cần phải xử lý, như khủng hoảng kinh tế - xã hội, những bất cập trong cung cách lãnh đạo, quản lý, sự giáo điều, chủ quan, duy ý chí trong quan niệm về CNXH và công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta.

Từ đây, lại xuất hiện một vấn đề lý luận cơ bản, căn cốt “mà thực tiễn đã vô tình húc phải” (V.I. Lê-nin) và cần phải làm rõ; đó là: CNXH ở Việt Nam là gì và biện pháp nào để xây dựng? Xây dựng CNXH là một quá trình chủ động, tự giác; do đó, nhận thức lý luận đầy đủ, phù hợp với thực tiễn luôn có vai trò quyết định trong xác định tầm nhìn chiến lược, trong hoạch định chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng. Cách tiếp cận từ giác độ vấn đề thực tiễn cho thấy rằng, chính nhận thức chưa đầy đủ về CNXH là nguyên nhân sâu xa, từ phía chủ quan, đã dẫn tới những sai lầm, bất cập, khuyết điểm trong quá trình xây dựng CNXH nói chung và trong thời kỳ trước đổi mới nói riêng. 

Vì vậy, việc làm rõ phương pháp tiếp cận thực tiễn không chỉ giúp chúng ta thấy được những vấn đề nổi cộm, cần đến sự soi sáng, dẫn đường của lý luận, mà còn làm rõ hơn nhận thức căn bản, mang tính nguyên tắc: Thực tiễn xây dựng CNXH có vai trò vừa thúc đẩy, vừa kiểm chứng quá trình đổi mới tư duy lý luận về CNXH ở Việt Nam.        

Tiếp cận hệ thống  

Trong phương pháp luận của khoa học hiện đại, lý thuyết hệ thống xuất hiện từ thập niên 80 của thế kỷ XX trở lại đây, phát triển nở rộ và được ứng dụng rộng rãi vào nhiều ngành khoa học. Nó không chỉ là sản phẩm của khoa học thông tin - điều khiển học, mà còn là sự xác nhận những nguyên tắc tư duy triết học; đó là: Cần phải xem xét một cách khách quan, toàn diện, lịch sử - cụ thể mọi sự vật, hiện tượng, những vấn đề nảy sinh trong sự vận động và quan hệ tác động qua lại giữa các hệ thống. Cách tiếp cận hệ thống này ngày càng được khẳng định trong tư duy quản trị quốc gia.        

Trước các vấn đề nảy sinh từ thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam, muốn cắt nghĩa và giải quyết chúng một cách toàn vẹn, không rơi vào phiến diện, thì tiếp cận hệ thống là cần thiết. Trên thực tế, chúng ta đã triển khai phương pháp này theo 2 phương diện: Thứ nhất, nhận thức lại quan niệm đã có của chúng ta về CNXH, về chủ nghĩa Mác - Lê-nin một cách toàn vẹn, chỉnh thể, thống nhất và cập nhật; đồng thời, tiến hành nghiên cứu sâu sắc và chỉnh thể tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH để bổ sung vào hệ thống lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam; qua đó, khẳng định cơ sở khoa học của quá trình đổi mới, hiệu chỉnh những nhận thức bất cập, không còn phù hợp với thực tiễn phát triển mới.

Tiếp cận hệ thống lý luận về CNXH ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới cũng chính là một giải pháp có thể đưa ra những gợi ý khoa học cho việc giải quyết các vấn đề của thực tiễn. Có thể thấy, hàng loạt các công trình nghiên cứu cấp quốc gia, trọng điểm (các công trình KX từ những năm 90 của thế kỷ trước trở lại đây) hoặc các nghiên cứu chuyên ngành về cơ sở lý luận của tiến trình đổi mới đã triển khai theo hướng này. Chính cách tiếp cận hệ thống với cơ sở lý luận của CNXH ở Việt Nam đã giúp chúng ta khắc phục được những nhận thức lý luận vừa giáo điều, vừa thiếu khoa học và còn chưa toàn diện... một thời có ảnh hưởng tới tư duy về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta.      

Thứ hai, sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam cũng đã được tiếp cận như một hệ thống chỉnh thể, bao gồm nhiều thành tố, bộ phận tương tác qua lại với nhau; để từ đó, thúc đẩy toàn bộ hệ thống phát triển. Những nghiên cứu về hệ thống chính trị, hệ thống kinh tế, những tổng kết về các giai đoạn đổi mới theo mốc thời gian (tổng kết về quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam sau 10 năm, 20 năm, 25 năm 30 năm và gần đây là 35 năm đổi mới) đều sử dụng phương pháp hệ thống. Cũng từ phương pháp tiếp cận này, chúng ta có sự bổ sung ở tầm lý luận, làm cho tư duy đổi mới mạch lạc hơn; theo đó, các yếu tố, sự kiện quan trọng được phản ánh khá đầy đủ, nhưng không lan man hoặc sa đà vào những tiểu tiết vụn vặt, mà vẫn làm nổi bật lên các “khâu đột phá”, “trọng tâm”, “trọng điểm”, “then chốt”... 

Tiếp cận mô hình

Trước một sự vật hoặc một hệ thống tương đối phức tạp, để tìm hiểu, nghiên cứu, người ta thường mô hình hóa nó; thêm vào đó, trong khi vận dụng một lý thuyết vào thực tiễn, người ta cũng thông qua một mô hình cụ thể để khai triển. Lý thuyết về phương pháp mô hình và cách tiếp cận mô hình ra đời từ nhu cầu, thực tiễn đó.

Tiếp cận mô hình là hướng tư duy từ thao tác thực tiễn xây dựng CNXH, nói cụ thể hơn, chính là quá trình từ lý luận chuyển hóa thành thực tiễn ở tầm quốc gia và bao giờ cũng phải thông qua một mô hình cụ thể. Chúng ta thấy, trong lịch sử của CNXH hiện thực đã có những khái quát lý luận về “mô hình Liên Xô”, “mô hình Nam Tư”, “mô hình kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp”, “mô hình chuyển đổi”... Mô hình có giá trị gợi mở để chủ thể học tập, tránh mò mẫm; mô hình cũng là sự thử nghiệm để rút kinh nghiệm, sau đó triển khai đại trà trong thực tiễn; ngoài ra, còn có cả mô hình mới để thí điểm, thử nghiệm một tư duy đột phá...

Từ đó, trong lý luận của đổi mới bắt đầu xuất hiện tư duy và cách tiếp cận mô hình, như tiến hành nhận xét, đánh giá, phê phán về mô hình quản lý kế hoạch hóa tập trung; xây dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN); xây dựng mô hình CNXH của Việt Nam trong thời kỳ quá độ; nhận thức chung về mô hình CNXH thời kỳ đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Tiếp cận mô hình đã có một số nghiên cứu khởi dẫn(1), là những nghiên cứu đóng vai trò quan trọng trong việc xác định và hoàn thiện dần nhận thức lý luận về các đặc trưng của CNXH ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Các thao tác khái quát, so sánh, phân tích, tổng hợp trong cách tiếp cận mô hình sẽ giúp chủ thể có thể đưa ra nhận thức về những đặc điểm, đặc trưng, cấu trúc và cách vận hành của một mô hình nhất định.

Hiện nay, chúng ta đang tiến hành xây dựng nhận thức mới về CNXH ở Việt Nam thông qua tiếp cận mô hình với các thuật ngữ, như “đặc trưng cơ bản của CNXH ở Việt Nam”; “con đường đi lên CNXH ở Việt Nam”; “phương hướng xây dựng CNXH ở Việt Nam”; “những mối quan hệ lớn cần được giải quyết”...    

Tiếp cận cơ chế 

Cơ chế là khái niệm được dùng để chỉ một quy luật vận hành của một hệ thống hay một sự vật, hiện tượng nào đó, mà trong nó, sự tương tác giữa các yếu tố với nhau kết thành hệ thống và cũng nhờ vào đó mà hệ thống này hoạt động.

Tiếp cận cơ chế giúp chủ thể nghiên cứu, tổng kết quan sát mối quan hệ giữa các thành tố, sự tương tác lẫn nhau của chúng và để trả lời câu hỏi xây dựng CNXH như thế nào; từ đó, hình thành thuật ngữ “con đường đi lên CNXH của Việt Nam”(2); cơ chế phối hợp giữa các chủ thể xây dựng CNXH: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”; cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng cơ chế quản lý mới, mà nổi bật là cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN...

Chúng ta đã tiếp cận cơ chế để đổi mới cơ chế quản lý - khâu đột phá trong đổi mới tư duy vào những năm 80 - 90 của thế kỷ XX; sau đó, là đổi mới các cơ chế về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; cơ chế thực hành dân chủ ở cơ sở cuối những năm 90 của thế kỷ trước; cơ chế xây dựng Đảng cầm quyền vào thập niên đầu của thế kỷ XXI...  

Tiếp cận chủ thể (gồm chủ thể hành động và chủ thể tư duy)

Trước hết, tiếp cận chủ thể chính là để trả lời câu hỏi ai là người xây dựng CNXH ở Việt Nam? Đổi mới ngày càng làm rõ, mở rộng chủ thể đa số qua các Cương lĩnh: “nhân dân lao động” (Cương lĩnh năm 1991), “nhân dân” (Cương lĩnh năm 2011) và tiêu biểu là toàn thể dân tộc trong khối đại đoàn kết với nòng cốt là khối liên minh công - nông - trí dưới sự lãnh đạo của Đảng; cùng với việc tiếp tục khẳng định các giai tầng “cơ bản”, như giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức... đã xuất hiện và khẳng định những cơ cấu xã hội mới, những giai tầng mới, mà điển hình là đội ngũ doanh nhân.

Tiếp đó, tiếp cận chủ thể là để làm rõ hơn vấn đề chủ thể tư duy về CNXH và lý luận về CNXH ở Việt Nam: Bên cạnh những “chủ thể truyền thống” như các vị lãnh tụ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng; các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, thời kỳ đổi mới còn làm rõ thêm nhiều chủ thể góp phần cho đổi mới tư duy lý luận. Họ là các nhà quản lý đã trăn trở, tìm tòi những hướng đi, cách làm để đổi mới; các nhà khoa học đã góp phần xây dựng luận cứ lý luận và thực tiễn cho quá trình đổi mới công tác, nhiệm vụ lãnh đạo - quản lý.

Đặc biệt là chủ thể nhân dân - một lực lượng có nhiều đóng góp quan trọng cho quá trình đổi mới tư duy về CNXH ở Việt Nam. V.I. Lê-nin từng khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân”(3). Chính chủ thể này đã đóng góp, gợi mở cho nhiều đổi mới về biện pháp để xây dựng CNXH ở nước ta. Không chỉ thông qua những kiểm định và khẳng định trên thực tế tính đúng đắn của đổi mới tư duy và hiện thực hóa chủ trương, đường lối của Đảng trong thực tiễn, nhân dân còn có những đóng góp quan trọng qua những tìm tòi, đột phá, sáng tạo. Qua chủ thể này, chúng ta thấy rõ được vai trò gợi mở của những sáng kiến từ quần chúng. Điều này được thể hiện qua việc nhân dân sáng tạo và “dũng cảm” đột phá cơ chế cũ, cán bộ lãnh đạo có tác phong dân chủ, biết lắng nghe dân, thể hiện quyết tâm đổi mới của Đảng, thể hiện sự gặp gỡ, thống nhất giữa “lòng dân” với “ý Đảng”. Khi hai chủ thể này gắn bó với nhau, học hỏi lẫn nhau thì có thể tạo ra bước tiến lớn về chất trong tư duy lý luận của Đảng. Đó là một bài học quý từ quá trình đổi mới, cần tiếp tục vận dụng sáng tạo, hiệu quả trong thời gian tới, hướng đến tổng kết những đột phá, sáng tạo lý luận của Đảng qua 40 năm đổi mới.      

Tiếp cận chủ thể nhân dân không chỉ phản ánh tinh thần chủ động của những chủ nhân của sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam, mà còn thể hiện tính chất dân chủ của đổi mới và sâu hơn, như một tổng kết kinh nghiệm của Đảng: Sự nghiệp đổi mới để xây dựng CNXH ở Việt Nam là của nhân dân, vì hạnh phúc của nhân dân, do nhân dân sáng tạo và là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo.

Tiếp cận này cho thấy thêm một khía cạnh rằng, tham gia vào công cuộc xây dựng CNXH và hoàn thiện lý luận này còn có cả một “hệ sinh thái xã hội”, bao gồm các nhà hoạt động thực tiễn và các nhà lý luận. Tham gia vào tổng kết kinh nghiệm và phát hiện vấn đề của đổi mới, không chỉ là những người làm công tác lý luận, mà còn là các nhà quản lý và cả những người đang trực tiếp lao động sản xuất, như công nhân, nông dân và hiển nhiên, có cả đội ngũ trí thức trên nhiều lĩnh vực. Đây là điểm khác biệt rõ nét khi so sánh thời kỳ đổi mới với thời kỳ trước đây, khi việc hoạch định chủ trương, đường lối và lý luận về cách mạng XHCN dường như chỉ là công việc của các cán bộ lãnh đạo và của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Tiếp cận từ giác độ lợi ích

Theo quan điểm của triết học Mác, lợi ích có vai trò rất to lớn đối với hoạt động của con người, là động lực sâu xa của lịch sử. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đều khẳng định, động lực sâu xa thúc đẩy con người hoạt động chính là lợi ích. Trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, Gia đình thần thánh, Hệ tư tưởng Đức..., C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã chỉ rõ lợi ích chính là sản phẩm hoạt động của con người, là sự kết tinh, đối tượng hóa bản chất con người. Khi nói về vai trò của lợi ích, triết học Mác cho rằng, lợi ích là cái liên kết các thành viên trong xã hội; được đặt trong quan hệ giữa con người với nhau và làm cơ sở quan trọng cho việc xác lập các quan hệ xã hội. Đồng thời, các ông cũng khẳng định rằng, lợi ích không chỉ là nguyên nhân sâu xa của mọi mâu thuẫn xã hội, mà còn là động lực của quần chúng nhân dân trong các cuộc cách mạng, cải biến xã hội, qua đó thúc đẩy lịch sử phát triển.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng đến lợi ích của nhân dân, của cả cộng đồng người và lợi ích của những con người cụ thể, vì Người cho rằng, đây là điểm khác biệt cơ bản giữa chế độ XHCN so với các chế độ xã hội trước đó. Người khẳng định, chỉ có CNXH mới “chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn”(4). Vì vậy, ngay từ những ngày đầu xây dựng chế độ xã hội, Người yêu cầu phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy, “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”(5).

Xã hội XHCN là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hoà với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó, cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội(6). Trong chế độ chính trị XHCN, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu.

Nhìn chung, kế thừa di sản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những nghiên cứu về động lực lợi ích và xử lý hài hòa các lợi ích trong quá trình đổi mới là hướng tiếp cận rất quan trọng và có liên quan chặt chẽ, được xem là sự tiếp nối tự nhiên của phương pháp tiếp cận chủ thể trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam.

Tiếp cận nhân học   

Con người là chủ thể của mọi quá trình phát triển, là mục tiêu giải phóng, cũng là động lực, chủ thể và là sản phẩm của sự nghiệp xây dựng CNXH. Cách tiếp cận nhân học tỏ ra có lợi thế trong việc nghiên cứu toàn diện vấn đề con người hiện đại. Những quan hệ cụ thể của con người, từ các phương diện khác nhau, như con người kinh tế - chính trị (giai cấp, nghề nghiệp, địa vị...), con người xã hội (dân tộc, tôn giáo, ngôn ngữ, giới, lối sống...), con người nhu cầu (lợi ích, khát vọng...) được nghiên cứu một cách tổng hòa trong nhân học. Có thể xem đây là một biểu hiện của phương pháp lịch sử - cụ thể khi tiếp cận với vấn đề con người.  

Nhiều nghiên cứu xã hội học, dân tộc học, tâm lý xã hội đã sử dụng cách tiếp cận nhân học để có được những kết quả nghiên cứu thấu đáo hơn, sâu rộng hơn. Điển hình là những nghiên cứu kiểu như “Con người - cách nhìn mới về những vấn đề không mới”. Tiếp cận nhân học làm rõ đặc trưng sinh động của xã hội và con người trong mô hình CNXH mà chúng ta đang xây dựng. Cách tiếp cận này giúp cho việc nghiên cứu về cấu trúc, đặc trưng, cách vận hành của xã hội đầy đủ hơn và chính xác hóa các quyết định trong quá trình xây dựng, ban hành chính sách.

Tiếp cận lộ trình phát triển tư duy

Nhận thức là một quá trình được hoàn thiện dần dần thông qua thời gian và hoạt động của con người. Nhiều vấn đề của lý luận về CNXH ở Việt Nam đã dần chín muồi theo một lộ trình mà các nhà nghiên cứu thường diễn đạt là “quá trình đổi mới tư duy” về một lĩnh vực cụ thể nào đó. Chẳng hạn, tư duy của  Đảng ta về kinh tế thị trường, đã chuyển biến từ “chú trọng hạch toán kinh doanh” (Đại hội VI) đến “cơ chế kinh tế thị trường” (Đại hội VII), rồi “kinh tế thị trường” (Đại hội VIII) đến “nền kinh tế thị trường” (từ Đại hội IX đến Đại hội XII) và hiện nay, kế thừa tinh thần của các đại hội trước, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”(7)

Tiếp cận lộ trình theo thời gian và theo trình độ tư tưởng là phương pháp tiếp cận khá phổ biến hiện nay trong giới nghiên cứu ở nước ta. Phương pháp này giúp cho chủ thể có thể nhận thức rõ những khía cạnh lịch sử phát triển của tư tưởng và những quy luật vận động của tư duy lý luận nói chung.

Tiêp cận thời đại 

Đây là một sự tiếp nối tư tưởng Hồ Chí Minh cách đây gần một thế kỷ, “cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới”(8). Hiện nay, nhận thức chung về môi trường, điều kiện cần cho sự phát triển quốc gia là: Không một nước nào có thể phát triển bình thường trong trạng thái bị cô lập và tự cô lập. Theo đó, phương pháp tiếp cận thời đại luôn cần thiết và khá phổ biến.

Cách tiếp cận này giúp cho Đảng, Nhà nước ta nhận thức rõ những xu thế lớn của thời đại mà Việt Nam cần chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, làm rõ và khẳng định xu thế đi lên CNXH thể hiện ra qua những khúc quanh co, “dích dắc”, biến động phức tạp khôn lường của kinh tế, chính trị thế giới; để khẳng định những giá trị thời đại của chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong thế giới đương đại. Đồng thời, cách tiếp cận thời đại giúp cung cấp thêm những cắt nghĩa mới, luận giải “Tại sao Mác đúng?”(9); để cập nhật những thành tựu nghiên cứu về CNXH hiện đại thông qua cải cách, đổi mới, “làm mới chủ nghĩa Mác” của các đảng cộng sản, các trào lưu XHCN quốc tế và của các nhà nghiên cứu mác-xít trên thế giới.

Lý luận về CNXH của Việt Nam còn được cập nhật hóa những thành tựu mới của khoa học và công nghệ, những giá trị trong kho tàng, di sản của khoa học xã hội hiện đại cả về ý tưởng và phương pháp; từ đó, cần tiến hành “gạn đục, khơi trong”, tiếp thu có chọn lọc, trên quan điểm, lập trường của chủ nghĩa Mác - Lê-nin những giá trị lý luận phù hợp và vận dụng sáng tạo vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam. “Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống”(10).

Tiếp tục hoàn thiện các phương pháp tiếp cận, nghiên cứu để phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam phù hợp với bối cảnh mới

Lịch sử tư tưởng chủ nghĩa Mác chỉ ra rằng, nhờ phương pháp khoa học (chủ nghĩa duy vật lịch sử) mà lý luận về CNXH của nhân loại đã được C. Mác  và Ph. Ăng-ghen chuyển hóa từ không tưởng trở thành khoa học. Trong quá trình nghiên cứu, xây dựng và phát triển lý luận, C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V.I. Lê-nin không chỉ kế thừa nhiều thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học tiền bối, mà còn kết hợp sử dụng nhiều phương pháp tiếp cận hiện đại của khoa học đương thời (bao gồm cả khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, các khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng). Từ “ba phát kiến vĩ đại của học thuyết Mác” (chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết về giá trị thặng dư, sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân) các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã tham khảo, kết hợp rất nhiều thành tựu của các ngành khoa học đương thời (cả về kết quả nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu) để kiến tạo nên học thuyết cách mạng và khoa học của riêng mình.

Không chỉ cống hiến về phát kiến và phương pháp, các nhà kinh điển của CNXH khoa học còn nêu tấm gương mẫu mực trong việc kế thừa các thành tựu và phương pháp khoa học đương thời của các bậc tiền bối, cho dù một số tác giả không hoàn toàn cùng lập trường tư tưởng; như V.I. Lê-nin từng bình luận: Mác đã phát hiện ra “cái hạt chân lý sâu sắc trong cái vỏ thần bí của chủ nghĩa Hê-ghen”(11) là phép biện chứng. Quá trình lập thuyết của các ông cho thấy, phải kiên định với mục tiêu, vững vàng trên phương pháp duy vật lịch sử, đồng thời cũng phải luôn sáng tạo, cởi mở để cập nhật những thành tựu và phương pháp khoa học hiện đại - Đó là chỉ dẫn rất có giá trị về phương pháp luận cho hậu thế.

Một mặt, cần kiên định quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử của chủ nghĩa Mác, với các kết luận về vai trò quyết định của sự phát triển của lực lượng sản xuất, của đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và “xây dựng giai cấp công nhân hiện đại”; cùng với đó là những nghiên cứu về tác động biện chứng, từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN, xây dựng hệ thống chính trị, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta; sự kết hợp giữa bối cảnh, xu hướng khách quan của thế giới với vai trò chủ động, tự giác của con người đang vươn lên nắm được quy luật vận động khách quan của tự nhiên, xã hội và tư duy.

Mặt khác, kinh nghiệm của hoạt động nghiên cứu lý luận gần đây còn chỉ ra rằng, trong nghiên cứu nếu chỉ “khư khư” với một vài phương pháp thì rất có thể lâm vào các tình thế kiểu như “sự tráo trở của phương pháp”. Kết quả là, những kết luận hoặc nhuốm màu “giáo điều” hoặc không đưa ra được những nhận thức mới và như vậy, sẽ không thể giúp ích gì cho phát triển kinh tế - xã hội, quản trị quốc gia. Tệ hại hơn, kiểu nghiên cứu này còn làm giảm lòng tin xã hội đối với công tác nghiên cứu, tổng kết lý luận nói chung và về CNXH, con đường đi lên CNXH ở Việt Nam nói riêng.  

Cùng với việc vận dụng trung thành và sáng tạo phương pháp duy vật biện chứng về lịch sử, việc tiếp cận và sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành đã mang lại nhiều thành tựu về lý luận và tính chất cập nhật tươi mới cho phong cách nghiên cứu lý luận thời kỳ đổi mới. Những nhận thức mới của Đảng ta về CNXH ở Việt Nam là kết quả của quá trình đổi mới tư duy về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Trong quá trình đó, chúng ta đã thấy được sự hỗ trợ, bổ sung cách tiếp cận và kết quả nghiên cứu tích hợp của nhiều ngành khoa học hiện đại.

Theo đó, tổng kết lý luận thời kỳ đổi mới cũng rất cần chú ý đến lĩnh vực phương pháp nghiên cứu; bao gồm: Việc vận dụng phương pháp duy vật lịch sử trong đổi mới tư duy về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam; tích hợp và tiếp cận các phương pháp nghiên cứu đa ngành, liên ngành trong nghiên cứu lý luận; vận dụng một số thành tựu về phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội hiện đại để giải quyết các vấn đề lý luận cấp thiết, đặt ra trong thời kỳ đổi mới.

Lịch sử nghiên cứu về CNXH ở Việt Nam thời kỳ đổi mới đã xác nhận: Đa dạng hóa phương pháp tiếp cận để phát triển lý luận luôn là một hướng đi cần thiết, góp phần giúp cho Đảng, Nhà nước, toàn quân và toàn dân ta đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử và cần được tổng kết một cách thấu đáo, kỹ lưỡng để tiếp tục phát triển lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam phù hợp với thực tiễn phát triển mới, hướng tới 40 năm đổi mới./.

----------------------

* Bài viết là sản phẩm của Đề tài “Những thành tựu phát triển lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 40 năm đổi mới” mã số: KX.04.02/21-25 do PGS, TS Tô Huy Rứa làm Chủ nhiệm, thuộc Chương trình “Nghiên cứu khoa học lý luận giai đoạn 2021-2025”, mã số: KX.04/21-25
(1) Như: Nguyễn Duy Quý (Chủ biên): Những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998; Nguyễn Đức Bình: Vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008; Chủ thuyết cách mạng và phát triển Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2012; Nguyễn Ngọc Long (Chủ biên): Chủ nghĩa Mác - Lênin với vận mệnh và tương lai của chủ nghĩa xã hội hiện thực, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009…
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 20 - 23
(3) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 35, tr. 64
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 11, tr. 610
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 21
(6) Xem: Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, số 966, tháng 5-2021, tr. 9
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 128
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 329
(9) Xem: Terry Eagleton:  Tại sao Mác đúng? Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2018
(10) Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tlđd, tr. 14
(11) V.I. Lê-nin: Toàn tập,  Sđd, t. 29, tr. 164

Đồng chí Đỗ Văn Chiến Ủy viên Bộ Chính trị,
Bí thư Trung ương Đảng,
Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam
Xem thêm
Gửi ban biên tập
Tìm kiếm văn bản