Quyền của người sử dụng đất liên tục được mở rộng
- Ông đánh giá như thế nào về những kết quả đã đạt được trong thực thi Luật Đất đai vừa qua?
- Luật Đất đai khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước quản lý. Tuy vậy, quyền của người sử dụng đất liên tục được mở rộng, gồm quyền được chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng, cho, thế chấp, góp vốn... - tức là người sử dụng đất được quyền định đoạt tài sản đất đai theo quy định của luật.
Các thể chế về đất đai và sản xuất kinh doanh thuận lợi đã tạo điều kiện để thị trường bất động sản khu công nghiệp diễn ra sôi động trong thời gian qua; cơ cấu lại thị trường đất khu dân cư nông thôn; chuyển các loại đất sang đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội đã cơ bản đáp ứng yêu cầu: đất làm đường, sân bay, thủy lợi và dịch vụ công, y tế, trường học, công viên...
Cụ thể, trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, xu hướng vận động sản xuất lớn của nền kinh tế dần được thể hiện rõ trong việc chuyên môn hóa sự phân công lao động, xu hướng hợp tác trong các khâu sản xuất, một bộ phận lao động chuyển sang làm dịch vụ. Cùng với đó là xu hướng tích tụ ruộng đất phục vụ sản xuất lớn hình thành rõ nét, hình thành lực lượng lao động làm thuê trong nông nghiệp là tiền đề của công nghiệp hóa nông nghiệp. Lực lượng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp đã giảm từ mức 24,44 triệu người năm 2013 xuống còn 14,26 triệu người năm 2021, nhưng giá trị sản xuất của khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản lại tăng tương ứng từ 0,68 triệu tỷ đồng lên 1,065 triệu tỷ đồng.
Diện tích đất sản xuất nông nghiệp có xu hướng giảm theo bình quân đầu người, nhưng địa tô chênh lệch tăng. Tổng diện tích đất nông nghiệp cả nước tăng từ mức 26.371 nghìn ha năm 2013 lên 27.934 nghìn ha năm 2020, nhưng tăng chậm hơn tốc độ tăng dân số, khiến cho mức bình quân giảm từ 0,292ha/người xuống 0,286ha/người.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn ngày càng được đẩy mạnh, gắn liền với việc chuyển đổi đất nông nghiệp sang đất chuyên dùng (tăng từ 1.884 nghìn ha năm 2013 lên 2.011 nghìn ha năm 2020), dịch chuyển lao động thuần nông sang kết hợp lao động công nghiệp và dịch vụ tăng tỷ trọng từ 63,2% năm 2013 lên mức 71,9% năm 2021).
- Cùng với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, thì Luật Đất đai hiện hành cũng được nhìn nhận đã tạo nền móng, hình thành thị trường bất động sản..., thưa ông?
- Trong các ngành kinh tế, hình thành thị trường bất động sản nhà ở và bất động sản công nghiệp, thì tại Nghị quyết số 26-NQ/TW năm 2003 về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và sau đó là Luật Đất đai năm 2003 đã đặt nền móng ban đầu để hình thành thị trường bất động sản.
Các Luật Nhà ở năm 2004 và Luật Kinh doanh bất động sản năm 2007 đã cụ thể hóa các chủ trương của Đảng và Nhà nước, cho phép thị trường bất động sản phát triển. Sau khi Luật Đất đai năm 2013 được ban hành, cùng với các Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014, Luật Đầu tư năm 2014, Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã tạo điều kiện cho thị trường bất động sản, khu công nghiệp phát triển. Tính tới tháng 9.2021, cả nước có 397 khu công nghiệp được thành lập trong tổng số 563 khu công nghiệp được quy hoạch phát triển, với tổng diện tích tự nhiên khoảng 123 nghìn ha, trong đó diện tích đất công nghiệp đạt khoảng 82,6 nghìn ha.
|
TS.Nguyễn Đức Kiên - Tổ trưởng Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ
|
Nhà nước sử dụng hiệu quả hơn quyền quy hoạch, chuyển đổi mục đích sử dụng đất
- Luật Đất đai được đánh giá là đạo luật quan trọng, phức tạp và có tác động sâu rộng về kinh tế - xã hội. Tuy vậy, đây cũng là đạo luật có tần suất sửa đổi khá nhiều. Theo ông, vì sao tính ổn định của Luật Đất đai vẫn còn hạn chế như vậy?
- Luật Đất đai đầu tiên được ban hành ngày 29.12.1987 và đến nay đã trải qua các lần thay thế vào các năm 1993, 2003, 2013 và sửa đổi, bổ sung vào các năm 1998, 2001, 2009. Như vậy, độ ổn định của Luật Đất đai còn thấp, trung bình cứ 5 - 7 năm lại phải thay thế hoặc sửa đổi, bổ sung.
Nguyên nhân theo tôi là bởi Luật Đất đai chưa làm rõ được quy trình chuyển từ sở hữu toàn dân sang sở hữu cá nhân, địa tô chênh lệch được phân chia như thế nào? Quá trình thu hồi đất đã gây ra nhiều hệ lụy tiêu cực cho phát triển đô thị và công bằng xã hội. Ví dụ, thu hồi đất làm đường khiến một số người mất toàn bộ đất mở rộng đường và phải đi tái định cư; trong khi đó, một bộ phận người sống phía sau lại được ra mặt đường mới và được hưởng toàn bộ giá trị đất đai tăng thêm do làm đường.
Đối với đất đai được thu hồi để giao cho các doanh nghiệp bất động sản đầu tư, nhờ các khoản đầu tư vào cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước (bên cạnh đầu tư của doanh nghiệp) mà giá trị của đất đai tăng lên nhiều lần. Tuy nhiên, cả Nhà nước và những người dân bị thu hồi đất lại không được hưởng chênh lệch địa tô từ quá trình đầu tư này mà phần lớn thuộc về doanh nghiệp và các nhà đầu tư bất động sản.
Một nguyên nhân nữa là chúng ta chưa quản lý chặt chẽ đất đai cả về lập bản đồ sử dụng đất, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Thực tiễn đã chỉ ra, công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất vẫn bị chồng chéo và mâu thuẫn với các quy hoạch ngành, quy hoạch vùng và quy hoạch xây dựng, làm giảm tính thống nhất của quy hoạch nói chung và tính hiệu quả của quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nói riêng.
Tình trạng quy hoạch treo là áp lực lớn đối với các cơ quan quản lý nhà nước và nhà đầu tư nên không còn tính định hướng phát triển lâu dài, phục vụ cả quá trình công nghiệp hóa. Tổn thất của Nhà nước, người dân trong quản lý quy hoạch là rất lớn, làm cản trở sự phát triển của đất nước khi có nhiều dự án đầu tư có chi phí giải phóng mặt bằng chiếm từ 70 - 80% tổng mức đầu tư. Công tác giải phóng mặt bằng và di dời hạ tầng kỹ thuật kéo dài và tốn kém là nguyên nhân dẫn tới tình trạng đội vốn và chậm tiến độ ở nhiều dự án đầu tư công. Hệ quả là các mục tiêu ban đầu chưa đạt được thì lại phát sinh ùn tắc, tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường và thiệt hại kinh tế cho doanh nghiệp và người dân.
Chúng ta cũng chưa có định hướng rõ, sử dụng nguồn lực đất đai phục vụ phát triển nên đã xảy ra sai phạm, thất thoát, một bộ phận giàu nhanh từ đất, nhưng Nhà nước và xã hội hưởng lợi ít. Các vụ án liên quan đến đất đai thời gian qua đã chỉ ra một trong những nguyên nhân là do chính sách, pháp luật về đất đai còn nhiều chồng chéo, thiếu thống nhất, ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý, tạo kẽ hở để không ít cá nhân, tổ chức lợi dụng, tham nhũng, trục lợi, gây thất thoát, lãng phí tài sản nhà nước.
- Từ thực tiễn nêu trên, theo ông, việc sửa đổi toàn diện Luật Đất đai lần này cần tập trung xử lý những vấn đề gì?
- Tôi cho rằng, trước hết, phải xác định rõ cách thức áp dụng mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN vào lĩnh vực đất đai trong sửa đổi Luật Đất đai lần này. Mặc dù là chủ sở hữu theo Luật nhưng Nhà nước, cụ thể ở đây là UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện, lại không có cơ chế, hay công cụ vật chất để thực hiện vai trò bảo đảm sự hài hòa giữa quyền lợi của Nhà nước và người sử dụng đất bị thu hồi đất trong trường hợp thu hồi đất phục vụ mục đích quốc phòng - an ninh, hoặc phát triển công trình quốc gia, công cộng. Nhà nước chưa thực hiện tốt quyền lực tối cao của chủ sở hữu và đồng thời là cơ quan quản lý hành chính là quyền quy hoạch và quyền cho chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Vấn đề này phải được làm rõ trong sửa đổi Luật Đất đai lần này.
Thứ hai, chúng ta phải làm rõ được yêu cầu về “bình đẳng tuyệt đối” trong công tác đền bù giải phóng mặt bằng. Ví dụ giá đền bù giải phóng mặt bằng cho công trình kết cấu hạ tầng, an ninh - quốc phòng có khác giá đền bù của các dự án nhà ở thương mại hay phân lô bán nền không nếu cùng do Nhà nước thu hồi đất?
Thứ ba, phải làm rõ được tính cần thiết của việc có quỹ nhà ở của từng địa phương để thực hiện nhiệm vụ được quy định trong Hiến pháp là Nhà nước bảo đảm quyền có chỗ ở cho công dân, là cơ sở để giải phóng mặt bằng, thu hồi nhà đất.
Thứ tư, phương pháp định giá đất khi thu hồi: đất gắn với mục đích sử dụng đất được cấp theo phương thức như hiện nay hay định giá theo giá trị hình thành trong tương lai khi đã có một số lượng lớn vốn được bỏ ra đầu tư. Cần xác định nguyên tắc định giá của phương pháp này để làm nguyên tắc xây dựng, sửa đổi Luật.
Thứ năm, cần xác định được tiềm năng đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, nhà ở và khả năng tạo ra nguồn lực cho đầu tư phát triển như thế nào để gắn quy hoạch sử dụng đất với quy hoạch phát triển đô thị và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thứ sáu, cần xác định rõ mô hình của các công ty nông lâm nghiệp Nhà nước gắn với việc tổ chức quản lý, sử dụng đất đai của các công ty này. Đặc biệt là rà soát lại các thửa đất, các hợp đồng khoán và giải quyết tranh chấp liên quan tới đất đai, hợp đồng khoán. Đây là giải pháp cần thiết để thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW năm 2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục sắp xếp đổi mới và phát triển nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông lâm nghiệp.
- Xin cảm ơn ông!
Theo Đại biểu Nhân dân