|
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ bắt tay ông Nguyễn Văn Pha, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam |
Thực tế hoạt động giám của MTTQ Việt Nam đối với chính quyền cấp cơ sở
Hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam đối với Nhà nước nói chung, với chính quyền cơ sở nói đều phải riêng tuân thủ bốn hình thức giám sát theo quy định tại Luật MTTQ Việt Nam, đó là: “Nghiên cứu, xem xét văn bản của cơ quan có thẩm quyền liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân. Tổ chức đoàn giám sát. Thông qua hoạt động của Ban thanh tra nhân dân được thành lập ở cấp xã, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng. Tham gia giám sát với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.”. (Điều 27 Luật MTTQ Việt Nam).
Cụ thể với chính quyền cơ sở thì MTTQ Việt Nam sẽ có các hình thức:
Giám sát việc ban hành nghị quyết của HĐND, quyết định của UBND cấp xã có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân địa phương.
Tổ chức các đoàn giám sát để giám sát việc triển khai thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội; việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND, UBND và cán bộ, công chức, viên chức cấp xã.
Chỉ đạo, hướng dẫn Ban TTND, Ban GSĐTCCĐ hoạt động.
Tham gia các hoạt động giám sát với HĐND cùng cấp, với các cơ quan ý thẩm quyền khác triển khai các hoạt động giám sát tại địa phương khí được yêu cầu.
Các hoạt động giám sát cụ thể
Giám sát việc tổ chức bầu cử đại biểu HĐND
Theo quy định của pháp luật về bầu cử, Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp xã cử người tham gia các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương như Ban bầu cử, Tổ bầu cử để tổ chức cuộc bầu cử ở địa phương. Với tư cách là thành viên của các tổ chức phụ trách bầu cử, bên cạnh việc thực hiện trách nhiệm của một thành viên, đại diện Mặt trận còn có nhiệm vụ giám sát các thành viên khác trong việc thực hiện nhiệm vụ. Khi phát hiện có sự vi phạm, đại diện Mặt trận có quyền yêu cầu chấm dứt việc vi phạm hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý.
Cũng theo quy định của pháp luật về bầu cử, Ủy ban MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền giám sát các hoạt động liên quan đến bầu cử, nhất là trong việc tổ chức ngày bầu cử bảo đảm dân chủ, đúng luật. Khi phát hiện những vi phạm pháp luật trong ngày bầu cử như tổ chức, cá nhân can thiệp trái pháp luật vào việc thực hiện quyền bầu cử của cử tri hoặc hiện tượng bầu hộ, bầu thay... thì Ủy ban MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên Mặt trận có quyền yêu cầu chấm dứt các vi phạm hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý kịp thời.
Giám sát việc ban hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định của Ủy ban nhân dân
Khoản 14, 15 Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định nghị quyết của HĐND, quyết định của UBND cũng là văn bản quy phạm pháp luật. Vì thế, giám sát việc ban hành nghị quyết của HĐND, quyết định của UBND phải được tiến hành từ khâu chuẩn bị ban hành nghị quyết, quyết định cho đến khâu thông qua nghị quyết, quyết định.
Về cơ bản, hoạt động giám sát tập trung vào việc nghiên cứu xem hồ sơ xây dựng nghị quyết, quyết định có đúng quy định chưa, đặc biệt những nghị quyết, quyết định có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân thì buộc phải có báo cáo đánh giá tác động, nếu không có báo cáo này hoặc việc đánh giá tác động sơ sài, chiếu lệ thì phải yêu cầu bổ sung, khắc phục. Quá trình thảo luận, thông qua nghị quyết, quyết định đều có các quy định về chủ thể thẩm tra, chủ thể cho ý kiến, các mốc thời gian trình... vì thế nếu phát hiện chưa đúng, chưa đầy đủ thì Mặt trận có quyền yêu cầu bổ sung, khắc phục.
Giám sát việc triển khai thực hiện các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
Đây là nội dung quan trọng nhưng cũng khá khó khăn khi triển khai các hoạt động giám sát. Tiêu chí quan trọng nhất để Mặt trận tổ chức giám sát là các chương trình, kế hoạch có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân ở địa phương. Vì thế, hoạt động giám sát cần tập trung vào các nội dung:
Thứ nhất, việc triển khai có đúng tinh thần nghị quyết của HĐND, quyết định của UBND không? Thứ hai, đối tượng thụ hưởng của chương trình, kế hoạch có đúng không? Thứ ba, việc huy động nguồn lực của xã hội, của người dân trên địa bàn có đúng chủ trương, chính sách, pháp luật không? Thứ tư, có xảy ra thất thoát, tham nhũng và các vi phạm khác khi triển khai chương trình, kế hoạch không?
Giám sát việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo
Mặt trận giám sát chính quyền trong công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo với những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, chính quyền có bố trí địa điểm tiếp công dân không? Thứ hai, chính quyền có lịch tiếp công dân không? Thứ ba, người đứng đầu có thực hiện đầy đủ, nghiêm túc việc tiếp công dân không? Thứ tư, việc trả lời, giải quyết các kiến nghị, phản ánh của công dân của người đứng đầu. Thứ năm, việc tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân. Thứ sáu, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
Giám sát việc triển khai các chương trình, dự án triển khai trên địa bàn Hoạt động giám sát này được thực hiện thông qua Ban TTND xã, phường, thị trấn và Ban GSĐTCCĐ.
Theo Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở và Nghị định số 59/2023/NĐ-CP ngày 14/8/2023 thì đối tượng, nội dung, phạm vi giám sát của Ban TTND và Ban GSĐTCCĐ là rất rộng và cụ thể. Ủy ban Mặt trận cấp xã bên cạnh nhiệm vụ thành lập Ban TTND và Ban GSĐTCCĐ thì có trách nhiệm chỉ đạo hoạt động của Ban TTND, Ban GSĐTCCĐ. Việc chỉ đạo thể hiện ở những mặt công tác sau đây:
Một là, giúp Ban TTND, Ban GSĐTCCĐ xây dựng kế hoạch giám sát hàng hàng năm phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương.
Hai là, giúp Ban TTND, Ban GSĐTCCĐ tổ chức các hoạt động giám sát cụ thể từ khâu xây dựng kế hoạch, thu thập thông tin đến khâu tiến hành giám sát và cuối cùng là khâu theo dõi, kiểm tra, phát hiện vi phạm và kiến nghị xử lý.
Ba là: Sử dụng các kết quả giám sát của Ban TTND, Ban GSĐTCCĐ vào việc giám sát hoạt động của chính quyền cấp xã.
Ủy ban Mặt trận cấp xã cần lưu ý phân biệt giữa chỉ đạo hướng dẫn với “làm thay”. Ban TTND, Ban GSĐTCCĐ hoạt động theo luật với nhiệm vụ và quyền hạn như nêu ở trên. Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận cấp xã không được phép làm thay mà chỉ được làm những việc mà pháp luật quy định như: yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền phối hợp, tạo điều kiện để Ban TTND hoạt động; xác nhận vào bản kiến nghị sau giám sát của Ban TTND; yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý tập thể, cá nhân can thiệp bất hợp pháp vào hoạt động của Ban TTND hoặc không thực hiện các kiến nghị đúng pháp luật của Ban TTND.
Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
Tồn tại, hạn chế
Về cơ bản, hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam đối với chính quyền cấp cơ sở còn những tồn tại, hạn chế sau đây:
Thứ nhất, nhiều nơi hoạt động giám sát còn hình thức.
Giám sát của Mặt trận đối với chính quyền cấp xã là một yêu cầu quan trọng để Mặt trận thực hiện vai trò “nòng cốt” để nhân dân thực hiện quyền làm chủ. Tuy nhiên, ở rất nhiều nơi hoạt động giám sát còn hình thức từ khâu xây dựng chương trình giám sát, triển khai giám sát và kiến nghị sau giám sát, thậm chí nhiều người dân không biết hoặc biết rất ít về hoạt động giám sát của Mặt trận ở địa phương. Chính quyền cấp xã một số nơi có vi phạm pháp luật về đất đai, về chính sách đối với người có công nhưng không thấy tiếng nói của tổ chức Mặt trận..
Thứ hai, chất lượng giám sát của Mặt trận ở nhiều nơi hạn chế.
Đây là vấn đề tồn tại từ rất lâu nhưng chưa được khắc phục đáng kể. Với nhân lực quá ít nhưng đối tượng và phạm vi giám sát lại quá rộng, vì thế Mặt trận cấp xã không thể tiến hành hoạt động giám sát một cách sâu rộng được. Thêm vào đó, những vấn đề về luật pháp, kinh tế - xã hội thường xuyên có thay đổi nhưng năng lực, trình độ của cán bộ Mặt trận không theo kịp, nên chất lượng các hoạt động giám sát rất hạn chế.
Thứ ba, Mặt trận thiếu chủ động xây dựng và triển khai các hoạt động giám sát.
Mặc dù hàng năm đều có hướng dẫn của Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp trên về hoạt động giám sát, tuy nhiên nhiều Ủy ban Mặt trận cấp xã chưa chủ động trong khâu xây dựng và triển khai các hoạt động giám sát. Nhiều nơi chủ yếu là tham gia các hoạt động giám sát của HĐND cùng cấp hoặc của Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp trên tại địa phương khí được yêu cầu.
Thứ tư, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa Ủy ban MTTQ Việt Nam với tổ chức thành viên liên quan.
Với bộ máy tổ chức và nhân sự như hiện nay (mỗi Ủy ban Mặt trận và tổ chức CT-XH chỉ có 01 biên chế), nếu không có sự phối hợp giữa Ủy ban Mặt trận với các tổ chức thành viên, nhất là các tổ chức CT-XH thì có thể nói là không thể tiến hành các hoạt động giám sát một cách đầy đủ và chất lượng được. Trong thực tế, nhiều nơi cũng đã có sự phối hợp khá tốt, nhất là giám sát các nội dung liên quan đến chế độ, chính sách có liên quan trực tiếp đến người dân ở địa phương. Tuy nhiên, sự chủ động từ phía Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận cấp xã là yếu tố quyết định.
Một số nơi Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận cấp xã chưa quán triệt và nhận thức đầy đủ tính chất của tổ chức Mặt trận cũng như các hướng dẫn của Đảng và quy định của nhà nước về giám sát nên chưa huy động được sự tham gia của các tổ chức thành viên vào hoạt động giám sát. Ở chiều ngược lại, một số nơi, các tổ chức CT-XH và một số tổ chức thành viên liên quan cũng thiếu sự chủ động đề xuất các nội dung giám sát để đề nghị Ủy ban Mặt trận và các tổ chức thành viên khác cùng tham gia.
Thứ năm, chính quyền một số nơi chưa thật sự tạo điều kiện cho Mặt trận tiến hành các hoạt động giám sát.
Quy định về chính quyền cấp xã tạo điều về kinh phí, nơi làm việc cho Mặt trận đã có. Tuy nhiên một số nơi, nhất là những nơi chưa cân đối được ngân sách thì ngay việc hỗ trợ cho hoạt động thường xuyên cho Ủy ban Mặt trận cấp xã còn khó khăn, nói gì đến hỗ trợ cho hoạt động giám sát.
Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế
Nguyên nhân khách quan
Các quy định về giám sát của Mặt trận đối với chính quyền cấp xã cùng cấp, ngoài việc thông qua hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động của các Ban TTND và Ban GSĐTCCĐ thì các nội dung khác còn khá chung chung. Giám sát của Mặt trận ở cấp xã có những khác biệt cơ bản với các cấp khác vì ở cấp xã chỉ có Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận “không hoàn chỉnh” (hầu hết các địa phương chỉ có chức danh Chủ tịch là biên chế, còn các chức danh Phó Chủ tịch, Ủy viên Thường trực là kiêm nhiệm). Với bộ máy lãnh đạo như vậy thì không dễ gì để tổ chức các hoạt động giám sát nếu không có các quy định, hướng dẫn phù hợp của pháp luật và của Mặt trận cấp trên, nhất là Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam.
Ở một số nơi, Mặt trận cấp trên chưa sâu sát hướng dẫn, giúp đỡ Mặt trận cấp xã tổ chức các hoạt động giám sát. Ở những đơn vị cấp huyện có địa nhiều xã, thị trấn; với biên chế hiện tại của Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp huyện thì khó có thể thường xuyên “xuống” cấp xã được. Do đó, hầu hết các địa phương chủ yếu vẫn thực hiện phương pháp hướng dẫn, chỉ đạo cấp xã bằng công văn là chính.
Cấp ủy một số nơi chưa tập trung chỉ đạo lãnh đạo Mặt trận xã thực hiện nhiệm vụ giám sát; cùng với đó, việc chỉ đạo chính quyền quan tâm tạo điều kiện cho hoạt động của Mặt trận nói chung, cho hoạt động giám sát nói riêng nhìn chung cũng còn khá hạn chế.
Nguyên nhân chủ quan
Bên cạnh yếu tố biên chế thì có thể nói năng lực đội ngũ cán bộ Mặt trận cấp xã ở nhiều nơi còn yếu. Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận cấp xã không làm tốt vai trò chủ trì các hoạt động giám sát với các tổ chức thành viên của Mặt trận. Ở chiều ngược lại, một số nơi khi các tổ chức CT - XH đề nghị Mặt trận phối hợp giám sát thì Mặt trận cũng không đủ người để tham gia.
Bản lĩnh chính trị của một số cán bộ Mặt trận cấp xã chưa thực sự tốt. Tình trạng e dè, nể nang, ngại va chạm xảy ra ở nhiều nơi. Thậm chí có người còn cho rằng chính quyền cấp kinh phí và các điều kiện bảo đảm khác cho Mặt trận, nếu Mặt trận làm “căng” quá sẽ dễ bị gây khó khăn.
Mặt trận cấp xã ở một số nơi không đủ các điều kiện tối thiểu để tổ chức các hoạt động giám sát: biên chế thì ít, kinh phí thì chỉ đủ để trả lương và các hoạt động văn phòng, đã thế lại thường rất chậm. Đây là vấn đề tuy không lớn nhưng lại ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động giám sát của Mặt trận ở cơ sở.
Những yếu tố tác động đến công tác giám sát của Mặt trận ở cấp cơ sở
Chúng ta đang sắp bước vào năm cuối cùng của nhiệm kỳ Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp và chuẩn bị cho một nhiệm kỳ mới. Các cấp bộ Đảng cũng đang chuẩn bị để tổng kết nhiệm kỳ hiện hành và chuẩn bị cho đại hội nhiệm kỳ mới. Với những gì đã làm được trong hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam nơi chung, của Mặt trận cấp xã nói riêng, chúng ta hoàn toàn có thể kỳ vọng vào những chủ trương của Đảng cũng như quan điểm của lãnh đạo Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam sẽ tiếp tục mở đường và tạo điều kiện để Mặt trận cấp xã thực hiện tốt hơn hoạt động giám sát của mình.
Công cuộc đổi mới đã mang lại nhiều nguồn lực to lớn, tạo đà cho sự phát triển đất nước trong giai đoạn tới. Tuy nhiên, cùng với đó, tình trạng tham nhũng, tiêu cực của cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị ở các cấp chưa giảm. Gần đây lại xuất hiện một tình trạng mới chưa từng có, thậm chí đang có nguy cơ trở thành trào lưu đó là “sợ sai”. Do sợ sai nên không dám làm, mà không làm tất sẽ dẫn đến việc công sẽ bị ngưng trệ do lỗi chủ quan của cán bộ, công chức, nhất là người đứng đầu. Vì thế nội dung giám sát của Mặt trận có lẽ cũng cần phải thay đổi cho phù hợp. Theo đó, ngoài việc giám sát những việc mà chính quyền đang làm thì còn phải giám sát cả những việc mà chính quyền không làm nếu như đó là những việc phải làm để góp phần làm lành mạnh một nền hành chính của nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Luật Tổ chức chính quyền địa phương đã phân định khá rõ ràng chính quyền cấp xã bao gồm ở nông thôn (xã) và đô thị (phường, thị trấn). Bên cạnh đó, cụ thể hóa tinh thần của Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức chính quyền địa phương còn có các quy định về chính quyền ở hải đảo, chính quyền ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Với mỗi loại hình, Luật đã quy định về cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn phù hợp. Bên cạnh đó, hiện ở nhiều địa phương đang tiến hành chủ trương sáp nhập các đơn vị hành chính, trong đó có cấp xã. Đây là những điểm mới khác biệt với tổ chức MTTQ Việt Nam hiện vẫn thực hiện theo Điều lệ hiện hành. Vấn đề này đòi hỏi tới đây Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam cần nghiên cứu sửa đổi Điều lệ MTTQ Việt Nam để cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của Mặt trận cấp xã cho phù hợp.
Một số yếu tố tác động đến hoạt động giám sát
Về kinh tế
Mặc dù còn rất nhiều khó khăn do tác động của đại dịch Covid-19 và các cuộc chiến tranh cục bộ trên thế giới nhưng theo nhiều dự báo lạc quan thì nền kinh tế nước ta vẫn tiếp tục có những bước phát triển, đời sống của nhân dân tiếp tục được nâng lên. Tuy nhiên, yêu cầu về phát huy dân chủ cũng theo đó tiếp tục được đề cao. Chính quyền cấp xã, tuy không phải là cấp quản lý về kinh tế nhưng lại có vai trò rất quan trọng trong việc tạo những điều kiện cần thiết để người dân phát triển sản xuất, kinh doanh và cũng là nơi đón nhận những chương trình, dự án về dân sinh, dân trí triển khai trên địa bàn. Mặc dù tổ chức bộ máy chính quyền cấp xã ngày càng hoàn thiện, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức cấp xã ngày càng được nâng lên nhưng có thể nói tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực vẫn được dự báo là còn tiếp tục ở nhiều nơi, đặc biệt là những lĩnh vực liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của nhân dân. Đây là những yếu tố tác động trực tiếp đến hoạt động giám sát của Mặt trận ở cơ sở.
Về chính trị - pháp lý
Về quan điểm, chủ trương của Đảng
Có thể nói, chưa bao giờ Đảng ta có một hệ thống các quan điểm về giám sát xã hội nói chung, giám sát của MTTQ Việt Nam nhiều như hiện nay. Nó không chỉ thể hiện trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc mà còn được thể hiện bằng nghị quyết, quyết định, chỉ thị, kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Đây là điều kiện hết sức thuận lợi cho hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam.
Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên cạnh sự kiểm soát trong nội bộ các cơ quan nhà nước, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước với nhau trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp thì còn đòi hỏi phải có kiểm soát quyền lực bên ngoài nhà nước để góp phần hạn chế sự tha hóa, lạm quyền. Chủ thể thực hiện vai trò kiểm soát quyền lực từ bên ngoài nhà nước không tổ chức nào tốt hơn MTTQ Việt Nam. Mặc dù các văn kiện của Đảng không nói rõ về vấn đề này nhưng bằng việc ban hành những văn bản cụ thể như Quy chế giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam, các tổ chức CT-XH; Quy định về việc về việc MTTQ Việt Nam, các đoàn thể CT-XH và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 30/10/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ; Quy định số 124-QĐ/TW ngày 2/2/2018 của Ban Bí thư về giám sát Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên; Chỉ thị số 18-CT/TW, ngày 26/10/2022 của Ban Bí thư về phát huy vai trò, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đã thể hiện sâu sắc tỉnh thần đó.
Pháp luật của nhà nước
Từ sau Hiến pháp năm 2013 và Luật MTTQ Việt Nam năm 2015, nhà nước đã ban hành rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật có quy định về giám sát của MTTQ Việt Nam, trong đó có giám sát của Mặt trận cấp cơ sở. Một điểm chung nhất là các văn bản ngày càng cụ thể hơn về cơ chế giám sát của MTTQ Việt Nam (Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam quy định chi tiết về các hình thức giám sát, phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam là một ví dụ điển hình).
Riêng với cấp cơ sở, việc Quốc hội ban hành Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở có thể coi là đỉnh cao về cơ sở pháp lý để Mặt trận và nhân dân giám sát hoạt động của chính quyền và cán bộ, công chức, viên chức cấp cơ sở. Các văn bản quy phạm pháp luật trước đây về dân chủ ở cơ sở và giám sát của MTTQ Việt Nam ở cấp cơ sở như Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; các nghị định của Chính phủ về Ban TTND chỉ là những văn bản dưới luật với nhiều nội dung đã không còn phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn. Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở và nghị định hướng dẫn chi tiết của Chính phủ được kỳ vọng sẽ thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam đối với chính quyền cơ sở trong thời gian tới.
Sự ủng hộ, kỳ vọng của nhân dân
Sau nhiều năm tiến hành các hoạt động giám sát của Mặt trận ở tất cả các cấp với nhiều kết quả đáng mừng thì có thể nói chưa bao giờ hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam nhận được sự kỳ vọng của nhân dân như ngày nay. Ở nhiều nơi, người dân nhiệt tình hưởng ứng và tham gia hoạt động giám sát của Mặt trận, nhất là những hoạt động giám sát liên quan đến chế độ, chính sách, đến việc triển khai các chương, trình dự án có tác động đến đời sống của nhân dân. Những kết quả tích cực trong hoạt động giám sát của Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp xã, của các Ban TTND, Ban GSĐTCCĐ ở một số địa phương thời gian qua đều có sự tham gia nhiệt tình và trách nhiệm của nhân dân.
Tuy nhiên, sự ủng hộ, kỳ vọng của nhân dân bên cạnh yếu tố thuận lợi là cơ bản thì cũng là áp lực lớn đối với Mặt trận cấp cơ sở. Điều này đòi hỏi Mặt trận phải làm tốt hơn công tác giám sát từ khâu lựa chọn nội dung đến khâu tiến hành giám sát và kiến nghị sau giám sát để hoạt động giám sát thực sự mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân.
Về tổ chức và hoạt động của MTTQ Việt Nam
Mặc dù sự chuyển biến về bộ máy tổ chức của hệ thống MTTQ Việt Nam để đáp ứng với yêu cầu của tình hình mới là khá chậm chạp nhưng cũng đem lại những hy vọng cho các cấp Mặt trận (gần đây có một số đổi mới về cơ cấu Đảng đoàn MTTQ Việt Nam, đổi tên gọi và nhiệm vụ một số ban, đơn vị ở cơ quan Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam). Đặc biệt, thời gian gần đây mối quan hệ giữa Ủy ban MTTQ Việt Nam với các tổ chức thành viên nhất là các tổ chức CT-XH ở các cấp có chiều hướng ngày càng gắn bó hơn. Nhiều hoạt động của MTTQ Việt Nam đã có sự phối hợp giữa Ủy ban MTTQ Việt Nam với các tổ chức thành viên, nhất là hoạt động giám sát. Việc Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam nhiều nơi thường xuyên quan tâm đến hoạt động giám sát, coi giám sát là một trong những nhiệm vụ trọng tâm cũng là dấu hiệu cho thấy hoạt động giám sát của Mặt trận sẽ tiếp tục được coi trọng và đề cao trong thời gian tới.
Về mối quan hệ giữa Mặt trận với chính quyền cấp xã
Quan hệ giữa Mặt trận với chính quyền cấp xã là mối quan hệ khá đặc biệt. Trong công việc hàng ngày, với tư cách là các thành viên trong hệ thống chính trị thì Mặt trận và chính quyền là đối tác, nhưng trong giám sát của Mặt trận thì chính quyền lại là đối tượng. Ở chiều ngược lại, HĐND cấp xã có quyền giám sát Ủy ban Mặt trận cấp xã, bình đẳng như các cơ quan, tổ chức khác trên địa bàn... Chính vì thế việc xác định mối quan hệ giữa hai bên khi nào là đối tác, khi nào là đối tượng phải được thể hiện từ trong nhận thức của mỗi bên. Về phía Mặt trận, cần xác định Mặt trận là tổ chức đại diện cho nhân dân, có trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân để từ đó chủ động hơn, bản lĩnh hơn trong giám sát chính quyền.
Tuy nhiên, với tư cách là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân thì Mặt trận cần có trách nhiệm tham gia xây dựng nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh. Phía chính quyền cũng vậy, cần xác định hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận đối với chính quyền là thực tế khách quan, là chủ trương của Đảng, là yêu cầu tự thân của chính quyền, bởi nó giúp cho chính quyền khắc phục những tồn tại, hạn chế, từ đó thực hiện ngày càng tốt hơn vai trò chính quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Ở đâu chính quyền và Mặt trận xác định được cân bằng hai yếu tố trên, ở đó chắc chắn sẽ phát huy tốt vai trò của Mặt trận trong giám sát và tham gia xây dựng chính quyền.
TS Nguyễn Văn Pha - Ủy viên Đoàn Chủ tịch UBTW MTTQ Việt Nam