Tin mới

Tối ưu hóa hiệu quả giám sát, phản biện xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp nhân dân theo chủ trương Đại hội XIII của Đảng

(Mặt trận) - Giám sát, phản biện xã hội chính là hoạt động thể hiện bản chất dân chủ của chế độ ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Qua các nhiệm kỳ Đại hội Đảng từ khi đổi mới đến nay, hoạt động này đã dần trở nên hoàn thiện, cùng với các hoạt động khác của thể chế chính trị, để bảo đảm từng bước thực hiện trong thực tế phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng.

Làm rõ nguyên nhân, trách nhiệm trong việc chậm tiến độ giai đoạn 1 dự án cảng hàng không Long Thành

Thực trạng và giải pháp hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên

Nâng cao trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong tiếp thu, giải trình, giải quyết và phản hồi kiến nghị sau giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam

Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Đỗ Văn Chiến tiếp xúc cử tri trước Kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa XV_Nguồn: baonghean.vn   

Giám sát, phản biện xã hội từ khi đổi mới đến nay

Một trong những bài học kinh nghiệm mà Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định là: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(1). Muốn vậy, mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, phải hiểu rõ lòng dân và thắt chặt mối quan hệ với nhân dân, hết lòng tin cậy và dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; tất cả mọi chính sách, mọi hoạt động của hệ thống chính trị đều phấn đấu cho mục tiêu cao nhất là vì hạnh phúc, ấm no thật sự cho nhân dân; chỉ có như vậy, mới giữ vững, củng cố và tăng cường lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta.

Tư tưởng “dân là gốc” là tư tưởng tiến bộ của nhân loại, được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu trong tác phẩm “Đường cách mệnh” (năm 1927), là sợi chỉ đỏ xuyên suốt và được vận dụng phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Đại hội XIII của Đảng khẳng định lại tư tưởng này và đặt ra yêu cầu cho giai đoạn hiện nay của nước ta. Nhân dân được xác định là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, có nghĩa là nhân dân có quyền lợi và nghĩa vụ cao nhất trong sự nghiệp to lớn, vinh quang này và điều đó cũng chính là thực hiện quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Sự ra đời và mọi hoạt động của hệ thống chính trị nước ta (bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội), xét về bản chất, đều là thực hiện sự ủy quyền của nhân dân. Nhân dân ủy quyền cho hệ thống chính trị, nhưng giữ lại quyền giám sát và phản biện xã hội để kiểm soát việc thực hiện sự ủy quyền đó. Việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân là một quá trình tất yếu và phụ thuộc vào điều kiện chủ quan và khách quan ở từng lúc, từng nơi, từng con người cụ thể.

Giám sát và phản biện xã hội là một con đường để thực hiện dân chủ, một công cụ có hiệu quả để thực hiện vai trò làm chủ của nhân dân, thể hiện quan điểm “dân là gốc”. Nó tồn tại một cách khách quan trong phát triển xã hội và có tác dụng, hiệu quả góp phần thúc đẩy quá trình dân chủ.

Từ khi trở thành chính đảng tiên phong lãnh đạo cách mạng nước ta, nhất là từ khi trở thành đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán quan điểm coi dân chủ là bản chất của chế độ và quán triệt quan điểm đó trong đường lối, chủ trương và trong hoạt động lãnh đạo đất nước của mình. Sự ra đời của đường lối đổi mới và thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới là sản phẩm của quá trình thực hiện dân chủ; trong đó, hàm chứa quá trình không ngừng giám sát và phản biện của các lực lượng xã hội. Mặc dù trong các nghị quyết của Đảng khi bắt đầu quá trình đổi mới chưa dùng khái niệm “giám sát, phản biện xã hội”, cũng như chưa thực hiện đầy đủ việc giám sát, phản biện xã hội theo đúng nghĩa hiện nay, nhưng những yếu tố của hoạt động giám sát, phản biện xã hội đã được thực hiện trên thực tế, mang lại hiệu quả và tác động tích cực, góp phần đưa công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc không ngừng vượt qua những khó khăn, thách thức, khắc phục dần những hạn chế, khuyết điểm để đi đến thành tựu của ngày hôm nay.

Đại hội X của Đảng lần đầu tiên chính thức đặt vấn đề giám sát của quần chúng nhân dân đối với hoạt động của Đảng, Nhà nước và cán bộ, đảng viên để thực hiện dân chủ, và coi đó là nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Nhà nước cần tạo cơ chế để thực hiện tốt nhiệm vụ đó. Kế thừa kinh nghiệm của quá khứ, thực hiện chủ trương của Đại hội X của Đảng và các văn bản quy định của Đảng, Nhà nước, các lực lượng xã hội tiếp tục thực hiện giám sát, phản biện xã hội với những bước phát triển mới. Ở nước ta hiện nay, có các lực lượng xã hội đông đảo tham gia hoạt động giám sát, phản biện xã hội dưới các hình thức đối với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; các chương trình, kế hoạch, chiến lược phát triển, quy hoạch, dự án... của các ngành, các địa phương, kể cả công tác tổ chức cán bộ. Những lực lượng đó là Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các hiệp hội doanh nghiệp, truyền thông, báo chí, tổ chức, cá nhân độc lập và các chủ thể chính thức, phi chính thức, trong đó cần nhấn mạnh là Hội đồng Lý luận Trung ương và Tổ tư vấn của Thủ tướng Chính phủ... Đó là một lực lượng đa dạng, thể hiện tính quần chúng, tính xã hội rộng rãi của hoạt động giám sát, phản biện xã hội.

Hiến pháp và luật pháp của Nhà nước ta công nhận quyền và nghĩa vụ công dân, bảo đảm quyền tự do, bình đẳng, đã tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện giám sát, phản biện xã hội của công dân. Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 đã quy định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân và tạo địa vị pháp lý, trách nhiệm và quyền hạn giám sát, phản biện xã hội cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ngày 12-12-2013, Bộ Chính trị đã ban hành Quyết định số 217-QĐ/TW, “Ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội”; và Quyết định số 218-QĐ/TW, “Ban hành Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”. Những văn bản quan trọng đó đã thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước, với quan điểm và định hướng đúng đắn cho hoạt động giám sát, phản biện xã hội, nhằm khơi dậy và thúc đẩy động lực dân chủ từ trong nhân dân, để từng bước hình thành môi trường thuận lợi cho hoạt động giám sát, phản biện xã hội.

Thực tiễn cho thấy, hoạt động giám sát, phản biện xã hội nhằm đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân trong thời gian qua đã có hiệu quả tích cực, cụ thể là:

- Góp phần nâng cao chất lượng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định: Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng (2).

- Tăng cường trách nhiệm của Đảng, Nhà nước; gắn bó hơn nữa quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; giúp Đảng, Nhà nước hiểu rõ hơn tâm tư, nguyện vọng của nhân dân.

- Tăng cường tính năng động, nhạy bén, nâng cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm đối với nhân dân của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

- Góp phần kiểm soát các xung đột ngôn luận, không để chuyển các xung đột này trở thành xung đột xã hội, giữ vững ổn định chính trị.

Trên con đường phát huy dân chủ, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, các yếu tố của giám sát, phản biện xã hội đã từng bước hình thành. Tuy mới chỉ là bước đầu, nhưng kết quả này đã nhanh chóng được đông đảo nhân dân hưởng ứng và có tác động nhất định trong việc tạo dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phù hợp với nước ta, góp phần tích cực vào thành công của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, với chế độ chính trị. Có thể nói rằng, quá trình đổi mới, xét về thực chất, là quá trình không ngừng dân chủ hóa các mặt của đời sống xã hội, bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế cho đến mọi lĩnh vực khác, trong đó có sự đóng góp tích cực bởi hiệu quả của hoạt động giám sát, phản biện xã hội.

Tuy nhiên, hiệu quả của giám sát, phản biện xã hội trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân vẫn còn nhiều hạn chế, cụ thể là:

- Phạm vi hoạt động giám sát, phản biện còn hạn hẹp, nhiều nội dung liên quan đến các vấn đề “quốc kế dân sinh”, đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân vẫn chưa được giám sát, phản biện, bảo vệ. Việc giám sát mới chỉ tiến hành với cá nhân, chưa được tiến hành với đơn vị, tổ chức.

- Không ít hoạt động giám sát, phản biện xã hội còn chưa đáp ứng yêu cầu về chất lượng, còn mang tính hình thức, phần nhiều mới dừng ở sự góp ý một chiều, mang tính phản ánh tình hình, mà chưa đi sâu làm rõ bản chất của sự việc, hiện tượng theo đúng yêu cầu của giám sát, phản biện xã hội.

- Hoạt động giám sát, phản biện xã hội chưa được thực hiện và phối hợp giữa những chủ thể có liên quan, còn mang tính riêng lẻ, nên chưa tạo được sức mạnh tổng hợp và đồng bộ.

Nhìn chung, hiệu quả của giám sát, phản biện xã hội nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân chưa được như mong muốn, một số nơi chưa tạo được niềm tin của nhân dân đối với các chủ thể giám sát, phản biện; quyền làm chủ thực sự của người dân còn có những hạn chế nhất định.

Nguyên nhân của thực trạng đó có thể tìm thấy trên cả hai mặt chủ quan và khách quan. Về khách quan, do những tàn dư của lịch sử để lại, đó là một nền  dân chủ tuy ngày càng tiến bộ rõ rệt nhưng vẫn còn nhiều bất cập và mang dấu ấn tư tưởng gia trưởng phong kiến, chịu ảnh hưởng tàn dư tập quán tiểu nông, dễ an phận, ngại đối diện, biện luận; trong khi đó, về chủ quan, việc thể chế hóa chủ trương giám sát, phản biện xã hội còn nhiều hạn chế, thiếu cụ thể, thiếu chế tài ràng buộc quyền và trách nhiệm giữa các bên có liên quan, nhất là thiếu sự đồng bộ giữa các chỉ thị, nghị quyết của Đảng với hệ thống văn bản pháp luật của Nhà nước. Sự hạn chế đó đã chẳng những không thúc đẩy được việc thực hiện một cách nghiêm túc giám sát, phản biện xã hội, mà còn làm suy giảm lòng tin của nhân dân với hoạt động này. Trên thực tế, việc thực hiện giám sát, phản biện xã hội với phương châm rất sáng tạo được đề ra từ hai thập niên trước, nay được bổ sung, phát triển thành “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” còn phụ thuộc vào phẩm chất, năng lực của từng con người, từng chủ thể, mà trước hết là người đứng đầu địa phương, cơ quan, đơn vị. Trong môi trường xã hội nước ta, cơ chế và con người còn bất cập là hai yếu tố cơ bản chưa thuận lợi cho việc giám sát, phản biện xã hội. Đó chính là nguyên nhân chủ yếu làm cho hiệu quả của giám sát, phản biện xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình và sự mong mỏi của nhân dân.

Để tối ưu hóa hiệu quả giám sát, phản biện xã hội theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng

Đại hội XIII của Đảng đánh dấu sự phát triển sang một thời kỳ mới trong đường lối lãnh đạo đất nước của Đảng, đòi hỏi tăng cường phát huy sức mạnh nội lực của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thông qua con đường hữu hiệu nhất là thực hiện tốt hơn, mạnh mẽ hơn quyền làm chủ của mỗi người dân Việt Nam yêu nước và tiến bộ. Để góp phần thực hiện định hướng đó, cần tối ưu hóa hiệu quả giám sát, phản biện xã hội nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, coi đó là một công cụ thiết thực để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân một cách thực chất.

Tối ưu hóa hiệu quả của giám sát, phản biện xã hội được hiểu là làm sao để hiệu quả của giám sát, phản biện xã hội đạt đến mức tốt nhất trong hoàn cảnh cho phép. Muốn vậy, trước hết cần xác định hệ tiêu chí để đánh giá hiệu quả của giám sát, phản biện xã hội. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay, có thể nêu lên một số tiêu chí sau đây:

- Lựa chọn đúng vấn đề để tiến hành giám sát, phản biện xã hội là những vấn đề bức thiết của nhân dân, đòi hỏi phải được can thiệp để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.

- Xác định đúng chủ thể giám sát, phản biện xã hội, tạo điều kiện cần và đủ để bảo đảm hiệu quả giám sát, phản biện xã hội tối ưu nhất.

- Lựa chọn phương thức giám sát, phản biện xã hội phù hợp với khách thể giám sát, phản biện.

- Kết luận của giám sát, phản biện xã hội phải có tính thuyết phục cao.

- Hoạt động giám sát, phản biện xã hội phải bảo đảm tăng cường đồng thuận và đoàn kết xã hội, đoàn kết quốc tế, được nhân dân đồng tình, ủng hộ.

Những tiêu chí trên đây thể hiện bản chất và yêu cầu của hoạt động giám sát, phản biện xã hội, phân biệt rõ sự khác nhau của hoạt động này với việc đóng góp ý kiến, phản ánh, kiến nghị, khuyến cáo... mà lâu nay vẫn thường được thực hiện và thường ngộ nhận rằng đó chính là giám sát, phản biện xã hội.

Muốn đạt hiệu quả tối ưu, cần phải tạo những điều kiện tối ưu để thực hiện giám sát, phản biện xã hội. Từ kinh nghiệm thực tế, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát huy dân chủ mà Đại hội XIII của Đảng đề ra, cần có những điều kiện sau đây:

Thứ nhất, điều kiện quan trọng hàng đầu là đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, nhằm quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương của Đảng về phát huy vai trò trung tâm, chủ thể của nhân dân, khẳng định nhận thức về sự cần thiết khách quan của giám sát, phản biện xã hội trong toàn Đảng, trong hệ thống chính trị và trong nhân dân; khắc phục sự chần chừ, ngần ngại, đề phòng và bác bỏ những quan điểm sai lệch, tiêu cực; bảo đảm tính tự nguyện của chủ thể và khách thể giám sát, phản biện xã hội.

Thứ hai, xây dựng hệ thống thể chế pháp luật đồng bộ và nhất quán, bảo đảm tính công khai, minh bạch trong thông tin có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người dân cho các chủ thể phản biện; trong đó, chú trọng đến Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng và người dân.

Thứ ba, tạo ra những hình thức và giải pháp để gắn bó quan hệ giữa hệ thống lãnh đạo, quản lý các cấp với các tầng lớp nhân dân, để hiểu đầy đủ, sâu sắc hơn về tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Hiểu thấu lòng dân là điều kiện quan trọng để giám sát, phản biện xã hội có hiệu quả; trong đó, chú trọng đến các hình thức, như thăm dò dư luận xã hội, trưng cầu dân ý, đối thoại và tiếp xúc với nhân dân một cách thực chất.

Thứ tư, bảo đảm tự do ngôn luận, tự do báo chí theo quy định của pháp luật. Thực hiện cơ chế để tôn trọng những ý kiến khác nhau khi không trái với lợi ích chung.

Thứ năm, tạo cơ chế tự chủ trong hoạt động của các chủ thể giám sát, phản biện xã hội, nhằm bảo đảm tính khách quan của giám sát, phản biện xã hội.

Tạo ra những điều kiện trên đây là một quá trình chuyển động không đơn giản, đòi hỏi sự chuyển đổi từ quan điểm, nhận thức đến cơ chế vận hành và tổ chức cán bộ. Vấn đề không dừng ở những nội dung tác nghiệp, những khâu nghiệp vụ của hoạt động giám sát, phản biện xã hội, mà là sự đổi mới tư duy và hành động thực hành dân chủ. Bao trùm lên tất cả là cần xuất phát từ động cơ trong sáng, một lòng vì nước, vì dân, bằng mọi cách bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Mặc dù chủ trương giám sát, phản biện xã hội là đúng đắn, hợp lòng dân, nhanh chóng được xã hội hưởng ứng, nhưng hiệu quả của chủ trương này chưa được như mong muốn, do vẫn cần tiếp tục hoàn thiện một số điều kiện cần và đủ cho hoạt động này.

Người dân trở thành trung tâm, chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc - đó là vinh dự và trách nhiệm to lớn; song, nhân dân mong muốn được giám sát, phản biện một cách thực chất để những chủ trương, chính sách, pháp luật đi vào được cuộc sống, để quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân được bảo đảm và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân./.

-----------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 27-28
(2) Xem: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 460

Đồng chí Đỗ Văn Chiến Ủy viên Bộ Chính trị,
Bí thư Trung ương Đảng,
Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam
Xem thêm
Gửi ban biên tập
Tìm kiếm văn bản