Tin mới

An sinh xã hội cho người cao tuổi: Thực trạng và giải pháp

Việt Nam vừa mới bước vào giai đoạn dân số vàng đã phải đối mặt với vấn đề già hoá dân số, hiện đang là một trong 10 quốc gia có tỷ lệ già hóa dân số nhanh nhất thế giới. Tỷ lệ người cao tuổi tăng nhanh liên tục từ 7,1% (năm 1989) lên 8,7% (năm 2009) và 10,2% (năm 2014). Chỉ số già hoá dân số tăng nhanh, từ 18,2% (năm 1989) lên 44,6% năm 2014 và sẽ tiếp tục tăng trong giai đoạn sắp tới. Chúng ta chính thức bước vào giai đoạn già hóa dân số từ năm 2011, nhanh hơn 06 năm so với dự báo và chỉ mất khoảng 20 năm để chuyển từ giai đoạn già hóa dân số sang giai đoạn cấu trúc dân số già. Tỷ lệ dân số cao tuổi càng lớn, gánh nặng bệnh tật và tử vong, nhất là với các bệnh không lây nhiễm càng lớn, đặt ra những vấn đề cần phải giải quyết để bảo đảm An sinh xã hội cho người cao tuổi ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Ninh Bình: Gặp mặt, tri ân chiến sĩ Điện Biên, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến trực tiếp tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Trưởng Ban Dân vận, Chủ tịch Ủy ban MTTQ tỉnh Thanh Hóa thăm, tặng quà gia đình chính sách tại thị xã Nghi Sơn

Bắc Giang: Bàn giao nhà đại đoàn kết cho hộ cận nghèo ở huyện Tân Yên

 Ảnh minh họa

An sinh xã hội đối với người cao tuổi là những can thiệp của Nhà nước và xã hội bằng các biện pháp kinh tế để hạn chế, phòng ngừa và khắc phục rủi ro cho đối tượng này. Trong những năm qua, bảo đảm an sinh xã hội cho người cao tuổi ở Việt Nam ngày càng được hoàn thiện và phát triển. Đến nay, đã có nhiều chính sách, chương trình dành cho người cao tuổi theo các nhóm đối tượng khác nhau, nhưng tập trung nhất là các nhóm chính sách về BHXH, BHYT và trợ cấp xã hội.

Định hướng chính sách về an sinh xã hội cho người cao tuổi ở Việt Nam ngày càng được hoàn thiện
Chăm sóc và phát huy vai trò của người cao tuổi trong đời sống xã hội luôn là những định hướng chính sách mà Đảng và Nhà nước quan tâm và thực hiện trong các giai đoạn phát triển của đất nước. Điều đó đã được thể hiện rất rõ từ Hiến pháp năm 1946 cho đến Hiến pháp năm 2013. Ngày 27/09/1995, Ban Bí thư Trung ương Đảng Khóa VII đã ban hành Chỉ thị số 59-CT/TW, nhấn mạnh: “Người cao tuổi có công sinh thành, nuôi dạy con cháu giữ gìn và phát triển giống nòi, giáo dục các thế hệ thanh niên Việt Nam về nhân cách, phẩm chất và lòng yêu nước; một bộ phận đông đảo người cao tuổi Việt Nam đã có những đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” nên việc chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần của người cao tuổi là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và của toàn xã hội. Nhà nước cần dành ngân sách để giải quyết các vấn đề xã hội, trong đó có vấn đề chăm sóc người cao tuổi. Sau hơn 14 năm thực hiện Chỉ thị số 59-CT/TW, ngày 27/01/2010, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Thông báo kết luận số 305 về kết quả thực hiện Chỉ thị số 59-CT/TW về chăm sóc người cao tuổi và những nhiệm vụ cần phải thực hiện trong thời gian tới. Ngày 28/04/2000, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Người cao tuổi và sau đó là Luật Người cao tuổi có hiệu lực thi hành từ 01/07/2010. Bên cạnh những định hướng chung này, hàng loạt các luật, chính sách được thông qua nhằm đảm bảo đời sống kinh tế, đời sống xã hội và chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi cũng đã được ban hành và thực hiện. Như vậy, định hướng chính sách an sinh xã hội cho người cao tuổi ở nước ta không ngừng được hoàn thiện và phát triển làm cơ sở thực hiện tốt công tác chăm sóc và phát huy người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay.

An sinh xã hội cho người cao tuổi có nhiều tiến bộ, song vẫn còn hạn chế, bất cập
Nhận thức về già hóa và An sinh xã hội cho người cao tuổi còn chưa đầy đủ và toàn diện
Năm 2011, Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ già hóa dân số với rất nhiều thách thức mà Đảng, Nhà nước và từng cá nhân, gia đình, cộng đồng phải đặc biệt quan tâm. Song, trong thực tế, một bộ phận cán bộ lãnh đạo, các ban, ngành, đoàn thể, chính bản thân người cao tuổi và gia đình nhận thức chưa đầy đủ về những thách thức này. Dẫn đến chưa chuẩn bị tâm thế cho một xã hội dân số già trong khoảng 18-22 năm nữa, thậm chí chỉ trong vòng 15 năm tới như khẳng định của World Bank tại Việt Nam. Chắc chắn đến năm 2050, Việt Nam sẽ là quốc gia có dân số “siêu già” như Nhật Bản hiện nay và với hơn 32 triệu người cao tuổi, chiếm 31% tổng dân số. Tốc độ “già hóa dân số” nhanh sẽ tác động tới nhiều lĩnh vực đời sống xã hội như hệ thống dịch vụ chăm sóc sức khỏe, hệ thống an sinh xã hội, việc làm, tuổi nghỉ hưu, quan hệ gia đình, tâm lý, lối sống… đặt ra yêu cầu, thách thức là cần phải xây dựng một xã hội thích ứng với giai đoạn “già hóa dân số” của đất nước. Chúng ta cũng nhận thức chưa đầy đủ về việc đảm bảo quyền và khả năng tiếp cận, thụ hưởng chăm sóc sức khỏe, An sinh xã hội, an toàn và môi trường thân thiện với người cao tuổi. Theo Tổng cục Dân số-Kế hoạch hóa gia đình, Bộ Y tế, người cao tuổi Việt Nam chủ yếu sống ở nông thôn, làm nông nghiệp và là nông dân; đa số chưa có thói quen khám bệnh định kỳ và khi phát hiện, bệnh thường ở giai đoạn muộn khiến việc chữa trị khó khăn hơn.
Chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi còn nhiều thách thức
Sức khỏe là tiêu chí quan trọng nhất khi phân tích thực trạng về phúc lợi của người cao tuổi. Trong thời gian vừa qua, do đời sống vật chất và tinh thần được cải thiện cùng với những tiến bộ nhất định của hệ thống y tế, sức khỏe của người cao tuổi Việt Nam nhìn chung được cải thiện. Tuy nhiên, còn nhiều thách thức về chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi Việt Nam: Tình trạng sức khỏe của người cao tuổi phụ thuộc rất nhiều vào tuổi tác, tuổi càng tăng thì tỷ lệ người cao tuổi có sức khỏe yếu càng cao, số bệnh mắc phải càng lớn và thời gian nằm viện càng dài. Thách thức lớn nhất đối với việc chăm sóc sức khỏe người cao tuổi hiện nay là mô hình và nguyên nhân bệnh tật của người cao tuổi đang thay đổi nhanh chóng khiến cho gánh nặng “bệnh tật kép” ngày càng rõ ràng. Do hệ quả của sự thay đổi mô hình bệnh tật là các bệnh không lây nhiễm đang nhanh chóng trở thành nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tật và tàn phế cho người cao tuổi và xu hướng này sẽ tiếp tục diễn ra trong những thập niên tới. Đồng thời, chi phí trung bình để chăm sóc sức khỏe cho một người cao tuổi bằng 7-8 lần chi phí trung bình chăm sóc sức khỏe cho một người trẻ tuổi, gánh nặng lớn về nguồn lực chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi là điều không tránh khỏi. Trong khi đó, mức độ hiểu biết về chăm sóc sức khỏe và tự chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi còn thấp, phần lớn người cao tuổi không biết các biểu hiện hoặc cách phòng chống các bệnh thường gặp. Khả năng và tỷ lệ tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe giữa các nhóm người cao tuổi hết sức khác nhau và đây là một nguyên nhân khiến cho một bộ phận không nhỏ người cao tuổi không được điều trị, chăm sóc đầy đủ ngay cả khi phát hiện ra bệnh tật. Mặt khác, mặc dù tỷ lệ người cao tuổi ngày càng tăng nhưng mạng lưới y tế cho người cao tuổi ở Việt Nam còn yếu, nhân viên y tế phục vụ tại cộng đồng còn thiếu; kỹ năng phát hiện, điều trị và chăm sóc người cao tuổi còn hạn chế.

Một số giải pháp chính sách An sinh xã hội cho người cao tuổi trước xu thế già hóa dân số ở Việt Nam hiện nay
Một là, nâng cao nhận thức của các nhà quản lý, hoạch định chính sách cũng như của toàn bộ cộng đồng về những thách thức của già hóa dân số và đời sống của người cao tuổi. Thực tế cho thấy, muốn thay đổi bất kỳ chính sách nào thì cần phải nâng cao được nhận thức của các nhà hoạch định chính sách và toàn xã hội về vấn đề đó. Do vậy, nếu vấn đề già hóa dân số và thực trạng dân số cao tuổi không được đánh giá, quan tâm sâu sắc thì sẽ không có sự thay đổi các chính sách hiện có hoặc đề xuất xây dựng chính sách mới phù hợp với xu hướng già hóa và thực trạng dân số cao tuổi. Những thách thức mà các quốc gia có dân số già và rất già như Nhật Bản, Ý, các nước Tây Âu là những bài học thực tiễn cho Việt Nam, đó là cần phải chuẩn bị ngay các chính sách, chương trình hướng tới một dân số già nhưng phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế còn thấp.
Hai là, giải quyết đồng bộ các chính sách tăng trưởng, phát triển kinh tế và bảo đảm An sinh xã hội nhằm đảm bảo và cải thiện thu nhập của người cao tuổi có được từ lao động và hưu trí. Thực trạng “già trước khi giàu” là một thách thức rõ rệt đối với việc đáp ứng nguồn lực giải quyết một dân số già hóa. Trong điều kiện đó, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn liền với các mục tiêu xã hội phải được coi là chiến lược quan trọng hàng đầu. Để làm được điều này cần tận dụng tốt cơ hội “dân số vàng” ngay từ bây giờ sẽ giúp Việt Nam có được một dân số già có thu nhập cao và sức khỏe tốt trong tương lai. Nguồn thu nhập ổn định nhất của người cao tuổi chính là tiền lương hưu được hưởng từ những gì mà họ đã đóng góp trong suốt thời gian làm việc. Do đó, cần phải cải cách hệ thống hưu trí theo một lộ trình nhất định nhằm đảm bảo sự công bằng, ổn định, phát triển quỹ và phù hợp với tình hình phát triển thị trường tài chính ở Việt Nam. Ngoài việc đảm bảo mối quan hệ đóng - hưởng sát thực hơn thì việc chuyển đổi cơ chế hoạt động của hệ thống hưu trí sẽ cải thiện cân bằng quỹ hưu trí một cách đáng kể, đặc biệt việc đầu tư quỹ hưu trí được chú trọng và có hiệu quả hơn. Gắn liền với chính sách này, cần:
- Thực hiện tốt chính sách BHXH nhằm tăng cường khả năng tiếp cận của các nhóm dân số, đặc biệt chú trọng đến mở rộng hệ thống BHXH với thiết kế linh hoạt, phù hợp với khả năng đóng góp và chi trả của đối tượng.
- Thúc đẩy người cao tuổi tham gia hoạt động kinh tế, đặc biệt những người có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, góp phần nâng cao đời sống và duy trì hoạt động của người cao tuổi. Đặc biệt, với các ngành mà đào tạo thông qua thực hành là chủ yếu thì việc người cao tuổi truyền đạt kinh nghiệm, kỹ năng cho thế hệ trẻ sẽ tiết kiệm được một nguồn lực lớn cho đào tạo.
- Trợ cấp xã hội cho nhóm người cao tuổi dễ tổn thương theo hướng mở rộng và tiến tới một hệ thống phổ cập cho mọi người cao tuổi - một hệ thống nhằm đảm bảo mức sống tối thiểu. Ví dụ, thiết kế và thực hiện một hệ thống trợ cấp tiền mặt với sự ưu tiên cho người cao tuổi ở nông thôn, phụ nữ sẽ có tác động giảm nghèo cao nhất vì đây là những nhóm dân số cao tuổi dễ tổn thương nhất với đói nghèo. Mức hưởng và cách thức trợ cấp cần được xem xét cho phù hợp với điều kiện sống và sức khỏe của người cao tuổi. Việc xác định đối tượng cần phải cải cách để tránh sai sót trong việc chấp nhận hoặc loại trừ đối tượng.
Ba là, tăng cường chăm sóc sức khỏe, xây dựng và mở rộng các dịch vụ chăm sóc người cao tuổi với sự tham gia tích cực, chủ động của mọi thành phần xã hội và nâng cao năng lực quốc gia về chăm sóc người cao tuổi.
- Cần đẩy mạnh công tác truyền thông giáo dục sức khỏe và nâng cao nhận thức, ý thức về sức khỏe cho mọi lứa tuổi để chuẩn bị cho một tuổi già khỏe mạnh, tránh bệnh tật, thương tật và tàn tật. Chú trọng việc quản lý và kiểm soát các bệnh mạn tính (đặc biệt như tim mạch, tăng huyết áp, thoái khớp, tiểu đường, ung thư…) cùng với việc ứng dụng các kỹ thuật mới trong chẩn đoán và điều trị sớm, điều trị lâu dài các bệnh mạn tính. Thực hiện nghiêm túc các quy định của Chính phủ và các Bộ, ngành về việc tạo ra môi trường sống thân thiện cho người cao tuổi (như xây dựng nhà cao tầng phải có thang máy hoặc đường đi cho xe lăn của người bị tàn tật hoặc già yếu…). Cần phải có một chương trình mục tiêu quốc gia toàn diện về chăm sóc người cao tuổi mà trong đó cần xác định một số mục tiêu lượng hoá được và có tính đặc trưng giới để cải thiện tình trạng sức khỏe người cao tuổi, giảm các bệnh mạn tính, tàn tật và tử vong khi bước vào tuổi già.
- Xây dựng và củng cố mạng lưới y tế chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, đặc biệt là mạng lưới kiểm soát các bệnh mạn tính. Phát triển mạnh mẽ mạng lưới bác sỹ gia đình. Mạng lưới y tế cần đảm bảo được sự tiếp cận thuận lợi cho các nhóm người cao tuổi thiệt thòi hoặc bất lợi như người cao tuổi ở nông thôn, phụ nữ cao tuổi hoặc người cao tuổi dân tộc ít người. Đặc biệt, các khó khăn về tài chính của các nhóm bất lợi này cần được giải quyết thông qua khám, chữa bệnh miễn phí hoặc hỗ trợ toàn phần bằng thẻ BHYT.
- Nhà nước cần đầu tư mạnh mẽ hơn nữa vào phát triển hệ thống các trung tâm bảo trợ xã hội và các trung tâm chăm sóc, nuôi dưỡng người cao tuổi, nhất là đối với người cao tuổi có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người cao tuổi là những người có công với đất nước, đồng thời đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ cụ thể cho các trung tâm bảo trợ xã hội và các trung tâm chăm sóc, nuôi dưỡng người cao tuổi do tư nhân cung cấp. Tạo điều kiện tốt nhất để tăng cường xã hội hóa công tác chăm sóc và phát huy người cao tuổi trong xu thế già hóa với tốc độ phi mã ở nước ta. Hỗ trợ thông qua giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, định hướng phát triển nguồn nhân lực… là những việc làm thiết thực nhất để tạo điều kiện cho các tổ chức này xây dựng, củng cố và phát triển trong điều kiện nhu cầu chăm sóc người cao tuổi ngày càng cao. Kết hợp hình thức này với việc khuyến khích chăm sóc người cao tuổi dựa vào cộng đồng và từng bước nâng cao và mở rộng dịch vụ chăm sóc người cao tuổi tại nhà. Đây là hoạt động xã hội hóa chăm sóc người cao tuổi cần được quan tâm ngay. Về dài hạn, với nguồn nhân lực dồi dào và có chất lượng, Việt Nam có thể cung cấp nhân lực điều dưỡng lão khoa cho khu vực và quốc tế.
- Xây dựng hệ thống bệnh viện và tổ chức nghiên cứu lão khoa trên phạm vi cả nước. Trước mắt, cần hoàn thiện hệ thống khoa lão khoa trong các bệnh viện đa khoa, phát triển hệ thống các bệnh viện chuyên khoa lão khoa ở Trung ương và tuyến tỉnh; củng cố và hoàn thiện các bộ phận khám, chữa bệnh lão khoa tại bệnh viện tuyến huyện và đưa nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe người cao tuổi vào chức năng, nhiệm vụ của trạm y tế cơ sở. Đổi mới chương trình đào tạo bác sỹ đa khoa với chuẩn đầu ra có chất lượng về khám, chữa bệnh lão khoa. Từng bước xây dựng và phát triển các chương trình đào tạo điều dưỡng lão khoa phù hợp với nhu cầu, điều kiện thực tế của từng địa phương. Các nội dung về nguyên tắc, cách tiếp cận trong chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi cần phải được đưa vào chương trình đào tạo y khoa cũng như các chương trình tập huấn cho nhân viên dịch vụ dân số, y tế, xã hội và truyền thông. Các chương trình đào tạo người chăm sóc không chính thức như các thành viên gia đình, bạn bè đồng niên… của người cao tuổi cũng cần được xây dựng và phát triển từ cộng đồng.
- Tăng cường vai trò của các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp trong việc xây dựng, vận động và thực hiện chính sách cho già hóa dân số và người cao tuổi. Các tổ chức này, đặc biệt là Ủy ban Quốc gia về Người cao tuổi và Hội Người cao tuổi Việt Nam, cần chủ động, tích cực trong việc tham gia xây dựng, góp ý các chính sách kinh tế, xã hội, y tế… cho các bộ, ngành chuyên môn để xây dựng được các chính sách nhất quán, thiết thực trong việc chuẩn bị và giải quyết các vấn đề của một dân số già hóa, cũng như cải thiện đời sống của người cao tuổi về mọi mặt. Các hoạt động vận động gia đình, cộng đồng và toàn xã hội tham gia chăm sóc người cao tuổi cần được thúc đẩy và nhân rộng. Cần kết hợp với các cơ quan chuyên môn trong nghiên cứu và đề xuất việc đa dạng hóa cách thức, mô hình tổ chức cuộc sống cho người cao tuổi như sống cùng con cháu, sống tại nhà dưỡng lão hoặc tại các cơ sở chăm sóc người cao tuổi tại cộng đồng… Tổ chức các hoạt động cộng đồng cho người cao tuổi một cách thường xuyên nhằm nâng cao hiểu biết và đóng góp ý kiến của người cao tuổi với các chính sách của nhà nước cũng như đời sống của cộng đồng.
- Xây dựng được cơ sở dữ liệu có tính đại diện quốc gia và thực hiện các nghiên cứu toàn diện về dân số cao tuổi. Không có những thông tin chính xác, cập nhật về già hóa dân số và người cao tuổi thì không thể có những đánh giá xác đáng về các vấn đề kinh tế, xã hội và sức khỏe của người cao tuổi. Đây sẽ là những đầu vào quan trọng cho việc đề xuất các chính sách, chương trình can thiệp thiết thực, có trọng tâm và hiệu quả. Sự kết nối lỏng lẻo giữa nghiên cứu và chính sách là điểm yếu nhất khi bàn đến già hóa dân số và dân số cao tuổi ở Việt Nam. Cho đến nay, số lượng nghiên cứu về dân số cao tuổi vẫn còn ít so với nhu cầu cần nghiên cứu để phục vụ cho mục đích phân tích và hoạch định chính sách. Đây cũng là một nguyên nhân khiến cho việc bàn luận các chính sách cho người cao tuổi vẫn còn hạn chế và hầu hết người cao tuổi được xem là gánh nặng cần phải giải quyết thay vì coi họ là những người có đóng góp lớn cho nền kinh tế và gia đình thông qua các hoạt động kinh tế và xã hội. Hơn nữa, việc chưa có được một điều tra có tính đại diện quốc gia về người cao tuổi đang gây khó khăn không nhỏ cho việc khai thác, nghiên cứu chuyên sâu về người cao tuổi. Không có nghiên cứu chuyên sâu có chất lượng thì khó có thể có chính sách can thiệp tốt nhằm đáp ứng nhu cầu của người cao tuổi và xu hướng già hóa dân số ngày càng nhanh.
Già hóa dân số là một thành tựu xã hội to lớn của loài người và của các quốc gia. Già hóa dân số không phải là một gánh nặng mà nó sẽ làm cho gánh nặng kinh tế và xã hội trở nên nghiêm trọng hơn nếu không có những bước chuẩn bị và thực hiện các chiến lược, chính sách thích ứng. Việt Nam đã bước vào giai đoạn già hóa dân số từ năm 2011 với tốc độ già hóa cao và với nhiều đặc điểm đặc trưng cho người cao tuổi ở Việt Nam là sức khỏe yếu, thu nhập thấp và không ổn định, phần đông sống ở nông thôn, đời sống vật chất nghèo, sống dựa vào con cháu; đời sống tinh thần đơn điệu, buồn tẻ, đồng thời cũng chưa chuẩn bị tâm thế sống xa gia đình trong các trung tâm chăm sóc người cao tuổi…, trong khi đó, thời gian chuẩn bị thích ứng không còn nhiều nên cần phải hoạch định những chiến lược, chính sách thực tế, xác đáng để bảo đảm An sinh xã hội cho người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay.

Tài liệu tham khảo:
- Ban Tuyên giáo Trung ương, Vụ Các vấn đề xã hội (2015), Đề án An sinh xã hội cho người cao tuổi.
- Bộ Y tế (2002), Báo cáo kết quả điều tra y tế Quốc gia 2001-2002, Nxb. Y học Hà Nội, Tr.33-38, 343-363.
- Viện Lão khoa (2001), Nghiên cứu tình hình sức khỏe bệnh tật của người cao tuổi tại cộng đồng.
- Nguyễn Văn Tập, Trương Việt Dũng, Đào Văn Dũng, “Nhu cầu, khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế của người cao tuổi tại 28 xã nông thôn trong 02 năm 2000-2001”, Tạp chí Y học thực hành, Bộ Y tế, Số 09 (487), 2004, Tr.15-47.
- Luật Người cao tuổi, Hà Nội, 2010

Đồng chí Đỗ Văn Chiến Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam
Xem thêm
Gửi ban biên tập
Tìm kiếm văn bản