|
Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc - Ảnh: tuyengiao.vn |
Thành tựu dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh là mốc đánh dấu việc xác lập thể chế chính trị dân chủ, đưa nhân dân ta từ địa vị nô lệ lên vị trí chủ nhân của đất nước; xác lập quyền lực chính trị của nhân dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(1). Và: “Trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của chúng ta, tất cả mọi quyền lực đều là của nhân dân”(2). Như vậy, theo Hồ Chí Minh, bản chất của dân chủ tức là dân là chủ và dân làm chủ.
Cuộc Tổng tuyển cử năm 1946 là cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam độc lập và cũng là lần đầu tiên người dân Việt Nam được thể hiện quyền dân chủ thực sự, bầu ra người đại diện của mình trong Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất - cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân.
Về tuyên bố pháp lý, tất cả các bản Hiến pháp của Việt Nam từ trước đến nay đều khẳng định, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, cụ thể:
Hiến pháp năm 1946, Điều 1, ghi: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam”. Hiến pháp năm 1959, Điều 4, ghi: “Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. Hiến pháp năm 1980, Điều 6, ghi: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”. Hiến pháp năm 1992, Điều 2, ghi: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức”. Hiến pháp năm 2013, Điều 2, ghi: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng cũng nêu rõ: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”(3).
Trên cơ sở kế thừa, bổ sung và phát triển quan điểm “tất cả quyền lực thuộc về nhân dân” của Cương lĩnh và các văn kiện, văn bản pháp lý trước đó, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân”(4). Đặc biệt, Văn kiện Đại hội XIII bổ sung cụm từ “dân thụ hưởng” vào phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(5). Đây là sự bổ sung, hoàn thiện nhằm hiện thực hóa phương châm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Cùng với “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát” thì “dân thụ hưởng” vừa là mục tiêu, vừa là động lực của nền dân chủ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân ở Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, nước ta là nước dân chủ, là nhà nước của dân, do dân và vì dân, cho nên mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Người căn dặn: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”(6), và: “phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy”(7). Trong “Thư gửi ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng”, ngày 17-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Ngày nay,chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(8).
Vì vậy, “dân thụ hưởng” là đích cuối cùng, mục tiêu tối thượng của một nhà nước vì dân, luôn nỗ lực quan tâm nâng cao đời sống của nhân dân, là sự khẳng định sâu sắc bản chất ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đó là mục tiêu tất cả quyền lực thuộc về nhân dân.
Bên cạnh đó, “dân thụ hưởng” là động lực to lớn, vô cùng quan trọng thúc đẩy, động viên mọi cố gắng, nỗ lực, sức sáng tạo và nguồn lực của nhân dân nhằm xây dựng nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Một trong những bài học kinh nghiệm quý báu được đánh giá, tổng kết trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, đó là: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”(9). Đảng ta chỉ rõ cần phải thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát,dân thụ hưởng”.
Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương; chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN. Nhờ đó, phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta thời gian qua đã đạt được những kết quả quan trọng:
Một là, dân chủ trong Đảng, trong hệ thống chính trị và toàn xã hội không ngừng được mở rộng và nâng cao. Tổ chức, phương thức hoạt động của Đảng và hệ thống chính trị không ngừng được đổi mới, chỉnh đốn, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đề cao nguyên tắc pháp quyền, phát huy dân chủ, tính chủ động sáng tạo. Sự tham gia của các tổ chức đảng và đảng viên vào việc hoạch định, triển khai thực hiện chủ trương của Đảng ngày càng rộng rãi, có hiệu quả. Ban hành và thực hiện có hiệu quả nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Hai là, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, vận động đông đảo nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, phát huy ngày càng tốt hơn vai trò đại diện quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân; chủ động tham gia giám sát và phản biện xã hội; làm tốt vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị, góp phần tích cực vào những thành tựu chung của đất nước.
Ba là, tiếp tục phát huy dân chủ XHCN, thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước. Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp năm 2013; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm công dân đối với xã hội. Tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tổ chức và công dân, kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Chú trọng thực hiện dân chủ cả trực tiếp và đại diện, nhất là dân chủ ở cơ sở, bảo đảm công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình. Người đứng đầu ở nhiều cấp ủy đảng, chính quyền đã tăng cường tiếp xúc, đối thoại, lắng nghe, tiếp thu, giải quyết những bức xúc và nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Bốn là, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hệ thống pháp luật được hoàn thiện một bước cơ bản. Vai trò của pháp luật và thực thi pháp luật ngày càng được chú trọng trong hoạt động của Nhà nước và đời sống xã hội. Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rõ hơn và có chuyển biến tích cực. Bộ máy nhà nước bước đầu được sắp xếp lại theo hướng tinh gọn gắn với tinh giản biên chế, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Năm là, hoạt động của Quốc hội trong việc thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao có nhiều đổi mới, chất lượng và hiệu quả được nâng cao. Vai trò, trách nhiệm của đại biểu Quốc hội thể hiện rõ hơn. Hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại các phiên họp của Quốc hội ngày càng chất lượng, trọng tâm, thiết thực, bám sát với thực tiễn của đất nước. Tổ chức bộ máy của tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, tổ chức bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn, chất lượng hoạt động có tiến bộ, bảo vệ tốt hơn lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức và cá nhân; tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Sáu là, Quy chế dân chủ ở cơ sở, Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (và từ tháng 7-2023, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở có hiệu lực) tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân được tham gia vào tiến trình xây dựng, hoạch định và giám sát việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Việc thực hành dân chủ đã và đang tạo động lực thúc đẩy, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, kiểm tra, giám sát các hoạt động của Nhà nước nói chung, của các cấp chính quyền nói riêng, khắc phục tệ nạn quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ, xa rời quần chúng nhân dân của một bộ phận cán bộ, công chức nhà nước; đóng góp tích cực vào việc cải cách hành chính; góp phần xây dựng bộ máy chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh; tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; đóng góp tích cực vào thành tựu phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước.
Một số hạn chế và nguyên nhân
Về hạn chế, bên cạnh những thành quả đạt được, Đảng ta chỉ ra những hạn chế trong thực hành, phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân trong những năm qua, đó là:
Các nguồn lực, tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc chưa thực sự được phát huy tốt. Việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội chưa theo kịp yêu cầu của tình hình mới, chưa thật sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở; chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện xã hội chưa đều. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu, chưa thực sự tôn trọng ý kiến, kiến nghị của nhân dân và giải quyết kịp thời những quyền, lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của người dân.
Quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm; vẫn còn biểu hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật. Cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện; vai trò giám sát của nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ. Việc chấp hành pháp luật nhìn chung chưa nghiêm, kỷ cương, phép nước còn bị xem nhẹ, xử lý vi phạm pháp luật chưa kịp thời, chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe(10).
Về nguyên nhân, những hạn chế nêu trên có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do hệ thống pháp luật, cơ chế, quy chế, tổ chức và các điều kiện để thực thi dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân còn thiếu và chưa đồng bộ. Không ít cấp ủy đảng, cơ quan nhà nước, cán bộ, đảng viên chưa là tấm gương về phát huy dân chủ trong xã hội. Ở một số nơi, các cấp ủy, chính quyền còn xem nhẹ vai trò của việc thực hành dân chủ nên công tác lãnh đạo chưa sâu sát, sự chỉ đạo còn mang tính hình thức, đối phó; đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức chưa nhận thức đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình trong việc triển khai các biện pháp thực hiện dân chủ nên chưa tận tâm, tận lực: người dân thiếu hiểu biết về các quyền dân chủ, cơ chế thực hiện dân chủ nên chưa chủ động, tích cực tham gia quá trình này.
Một số giải pháp phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Để phát huy thành tựu, khắc phục những hạn chế, tiếp tục thực hiện dân chủ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng, cần quán triệt và thực hiện tốt các giải pháp sau:
Thứ nhất, quán triệt nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ. Đảng, Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Mọi hoạt động của hệ thống chính trị phải phục vụ lợi ích của nhân dân. Giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân nhân.
Thứ hai, đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước. Phát huy quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức. Có cơ chế giải phóng mọi tiềm năng, sức mạnh, khả năng sáng tạo, động viên nhân dân tham gia phát triển kinh tế và quản lý phát triển xã hội. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, đạo đức, lòng yêu nước…nhằm nâng cao nhận thức về dân chủ của người dân. Bảo đảm công khai, minh bạch thông tin, quyền được thông tin và cơ hội tiếp cận thông tin của mọi tầng lớp nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, nhất là dân chủ ở cơ sở. Chống các biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức.
Thứ ba, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, phát huy dân chủ, pháp quyền, tăng tính chuyên nghiệp trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, trong thực hiện chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu lực, xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch,hiệu quả.
Thứ tư, đổi mới tổ chức bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động, nâng cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, hướng mạnh về cơ sở. Thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên, tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; xây dựng thế trận lòng dân, phát huy sức mạnh đoàn kết, đồng thuận của nhân dân.
Thứ năm, tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức nêu gương thực hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức xã hội.
Thứ sáu, thực hành dân chủ gắn liền với tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương. Phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân. Xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lợi dụng dân chủ, gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội hoặc vi phạm dân chủ, làm phương hại đến quyền làm chủ của nhân dân.
_________________
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.232.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.262.
(3) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,Hà Nội, 2011, tr.84-85.
(4), (5), (9), (10) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 172, 27, 28, 88-89.
(6), (7), (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.65, 52, 64.
TS NGUYỄN DUY TRÌNH
Học viện Chính trị khu vực III
Theo Tạp chí Lý luận chính trị